3 Người thầy đã định nghĩa trí tuệ Việt Nam | Vietcetera
Billboard banner
Vietcetera

3 Người thầy đã định nghĩa trí tuệ Việt Nam

Thành tựu của ba cuộc đời, ba người thầy uyên bác, minh tuệ này đều gắn bó với đời sống, tôn vinh đời sống, trân trọng trí tuệ Việt Nam.

An Lee
3 Người thầy đã định nghĩa trí tuệ Việt Nam

Giáo Sư Tôn Thất Tùng, Giáo Sư Trần Văn Khê, Giáo Sư Cao Xuân Hạo

Sự trân trọng của cộng đồng quốc tế mỗi khi nhắc đến Giáo sư Tôn Thất Tùng, Giáo sư Trần Văn Khê, Giáo sư Cao Xuân Hạo,… giúp ta nhận ra, căn tính Việt, ngoài những thành tựu đồ sộ về kiến thức, chuyên môn hiện giờ vẫn hữu ích, còn chính là niềm kiêu hãnh được là một người Việt với trí tuệ và nhân cách được rèn giũa và bồi đắp bắt đầu từ chính mảnh đất hình chữ S.

Dù tài năng hiếm có khiến thế giới ngưỡng mộ nhưng các giáo sư chưa khi nào quên mình là người Việt. Ba người thầy trong ba lĩnh vực y học, văn hóa nghệ thuật, ngôn ngữ, đã tô đậm hai chữ Việt Nam lên bản đồ thế giới theo cách của riêng mình nhưng đều khiến các thế hệ sau tự hào và biết ơn.

Người đưa nền y học Việt Nam ngang tầm thế giới

Ngày 10/5/2022, Google thay đổi ảnh đại diện logo trên trang chủ là hình ảnh GS Tôn Thất Tùng nhằm tôn vinh những thành tựu y khoa của ông.

40 năm trước đó, năm 1982, GS Viện sĩ Bác sĩ Tôn Thất Tùng ra đi vì nhồi máu cơ tim.

Cô bé 10 tuổi là tôi khi ấy, giờ không thể nhớ nổi trên ti vi và đài phát thanh người ta đã mô tả những gì về đám tang mà biển người đưa tiễn tự nguyện để tang rất đông, người khóc rất nhiều, một đám tang được cộng đồng quốc tế gửi lời chia buồn cũng rất nhiều vì “một nhà phẫu thuật vĩ đại”, một thiên tài của ngành y ra đi… Nhưng điều đến giờ tôi vẫn nhớ rất rõ là những giọt nước mắt của bà ngoại, một y tá khi ấy đã về hưu, một trong những người đã từng được ông khám bệnh. Bà muộn chuyến xe, không thể lên Hà Nội viếng giáo sư như bao người coi ông là ân nhân.

Những giọt nước mắt ấy không chỉ là nỗi đau phải tiễn biệt một người cả cuộc đời chữa bệnh, cứu sống con người nhưng lại không thể tự cứu mình, mà còn vì tiếc thương một tài năng của đất nước, một mất mát và tổn thất thực sự của ngành y Việt Nam.

alt
40 năm trước đó, năm 1982, GS, Viện sĩ Tôn Thất Tùng ra đi vì nhồi máu cơ tim. | Nguồn: Tạp chí Đông y

Bà, thế hệ giờ đã trăm tuổi (cả nghĩa đen và nghĩa bóng) là người đầu tiên kể cho tôi biết: chưa đầy 30 tuổi, GS Tôn Thất Tùng đã rất nổi tiếng, được coi là cha đẻ của các công trình phẫu thuật khiến giới y khoa quốc tế thán phục.

Nhiều năm sau, khi làm việc trong truyền thông y tế, tôi được biết nhiều hơn, rõ hơn về những thành tựu y khoa của ông, nói theo cách hài hước như các gen Z ngày nay là có thể giúp ngành y Việt Nam “sĩ đến cuối đời”, trong đó, nổi bật nhất là “Sự phân bố các tĩnh mạch trong gan và những ứng dụng của nó”, công trình nhận Huy chương bạc của Viện Hàn Lâm Y học Paris.

Không chỉ những người theo ngành y hay từng là bệnh nhân mới biết GS Tôn Thất Tùng là người có đôi bàn tay vàng và những thành tựu y khoa quốc tế được đặt theo tên ông, nhưng chỉ những người trong ngành mới biết và không bao giờ quên ông là một người thầy vĩ đại với kinh nghiệm lâm sàng xuất sắc và luôn muốn được truyền lại cho học trò, để họ trở thành những phẫu thuật viên, bác sĩ tài năng.

Nhà Giáo Nhân Dân GS Tiến sĩ Bác sĩ Nguyễn Đình Hối, nguyên Hiệu Trường trường Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, Nguyên Giám đốc Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP.HCM, đã từng kể về người thầy của mình trong cuốn Hồi Ký: Một buổi sáng thầy trò đứng ăn phở cạnh giảng đường tôi nói với thầy, “ông bán phở bị loét hành tá tràng”. Thầy chỉnh ngay: ''loét bờ cong nhỏ, người thấp mập không loét hành tá tràng''. Độ nhạy cảm lâm sàng phi thường của thầy vừa là tài năng bẩm sinh vừa là kết quả của quá trình nghiên cứu miệt mài được các học trò luôn coi là tấm gương. Trong những buổi giao ban, thầy phân tích từng trường hợp cấp cứu, cái này đúng, cái kia sai, cái này nên làm và cái kia không được làm. Giao ban thật bổ ích và vui vẻ. Học trò được giao ban đã nói: được dự giao ban với thầy, không cần hỏi cũng giỏi.

“Học trò của GS Tôn Thất Tùng”, cũng là niềm tự hào của tất cả những người thầy thuốc. Những hậu sinh vẫn miệt mài trên giảng đường trường y, trong bệnh viện, luôn coi giáo sư là tấm gương và thần tượng trong lòng, những kinh nghiệm, thành tựu y khoa của ông không còn được truyền thụ trực tiếp, nhưng vẫn là di sản kiến thức được kế thừa để cứu chữa người bệnh.

alt
GS. Tôn Thất Tùng hướng dẫn học trò phương pháp mổ gan khô. | Nguồn: Báo Dân trí

Trong khi làn sóng Match day lan khắp mạng xã hội với hình ảnh các bác sĩ nội trú ngẩng cao đầu đọc chuyên ngành của mình, có lẽ cũng cần nhắc lại rằng, người đã đấu tranh đòi chính phủ Pháp tổ chức cuộc thi nội trú cho sinh viên bản địa vào năm 1938, cũng là người duy nhất trúng tuyển xuất sắc kỳ thi khóa nội trú đầu tiên của trường y duy nhất trong cả khu vực Đông Dương khi ấy, bác sĩ nội trú người Việt đầu tiên, chính là GS Tôn Thất Tùng.

Là thiên tài của ngành y Việt Nam, cũng đồng thời là Viện sĩ Viện Hàn lâm Y học, thành viên các tổ chức y khoa danh tiếng của nhiều quốc gia như Liên Xô, Pháp, Đức…, GS Tôn Thất Tùng chính là người đã đưa nền y học Việt Nam sánh ngang các nước trên thế giới.

Cây đại thụ âm nhạc, “mang đờn cò và đờn tranh” đến với thế giới

Năm 2025. Âm hưởng, giai điệu nhạc dân gian mang đậm bản sắc Việt được kết hợp một cách sáng tạo cùng các yếu tố hiện đại, đã thu hút nhiều thế hệ của các gen từ X,Y,Z đến Bêta, tạo nên bảng thành tích của những MV trăm triệu view, các chương trình ca nhạc hấp dẫn. Khi nhắc đến Bống Bống Bang Bang, Bắc Bling, Vũ trụ Cò bay… những người đã từng viết về âm nhạc truyền thống Việt Nam không thể không nhớ đến GS Trần Văn Khê, cây đại thụ cả đời đau đáu theo đuổi, tôn vinh, giữ gìn và lan tỏa, quảng bá giá trị âm nhạc dân tộc ra thế giới. Tài năng và những đóng góp của ông cho văn hóa dân tộc, âm nhạc, kịch nghệ truyền thống đã được truyền thông trong nước và quốc tế ghi nhận, tôn vinh, nhưng không nhiều người biết đến việc GS Trần Văn Khê đã đem tất cả “sự nghiệp tinh thần”, những thành tựu miệt mài suốt 60 năm cống hiến của một GS Tiến Sĩ Sorbonne, thành viên Hội Đồng Quốc Tế Âm Nhạc Dân gian (IFMC- International Folk Music Council), về quê hương.

alt
GS Trần Văn Khê, cây đại thụ cả đời đau đáu theo đuổi, tôn vinh, giữ gìn và lan tỏa, quảng bá giá trị âm nhạc dân tộc ra thế giới. | Nguồn: Báo Người Lao động

Một người đã rời Pháp, quốc gia vô cùng trọng thị, ở đó ông có một cuộc sống đầy đủ tiện nghi, nhiều đặc ân về đời sống vật chất và tinh thần để trở về, để được “giảng giải về văn hóa nghệ thuật của Việt Nam cho lớp trẻ Việt Nam, bằng tiếng nói Việt Nam, trên lãnh thổ Việt Nam”, đó chẳng phải là căn tính Việt thấm đẫm tình yêu và lòng tự hào dân tộc mạnh mẽ sao?

Trong cuốn tự truyện Trí Huệ để lại cho đời, cây đại thụ của âm nhạc truyền thống Việt Nam đã tự vẽ chân dung mình: chỉ là một người bình thường với tình yêu vô biên dành cho âm nhạc dân tộc nhưng lời nhắn nhủ bình dị của ông lại vô cùng thấm thía: tôi muốn dành cả cuộc đời cho âm nhạc Việt Nam, để giới thiệu âm nhạc “sâu trong dân và rộng khắp năm châu”.

alt
Cuốn tự truyện Trí Huệ để lại cho đời. | Nguồn: Momo Bookstore

Người có vốn từ siêu đẳng và thấu hiểu tiếng Việt đến mức tuyệt đỉnh

GS Tôn Thất Tùng, GS Trần Văn Khê, là những danh nhân chắc chắn người Việt nào cũng đã từng được nghe qua, dù thuộc thế hệ nào. Riêng GS Cao Xuân Hạo, thì chỉ những ai quan tâm đến tiếng Việt, dạy tiếng Việt và học tiếng Việt, hoặc những dịch giả coi công việc chuyển ngữ sang tiếng Việt là sự nghiệp mới biết.

Trong giờ luyện dịch của một lớp chuyên ngữ năm 1987, thầy giáo của tôi đã nói rằng, muốn trở thành dịch giả của bất kỳ ngôn ngữ nào, tiếng Việt phải thật giỏi. Người giỏi tiếng Việt không dịch con mèo đen, mà gọi “chú mèo mun”, không dịch con ngựa đen, mà là “ngựa ô”. Muốn dịch hay, phải giỏi cả hai ngôn ngữ và viết chúng thật chuẩn, thật sang trọng nhưng phải thật tự nhiên. Và nên đọc Cao Xuân Hạo.

alt
GS Cao Xuân Hạo. | Nguồn: TL - CAND

Rất nhiều năm sau, cho đến tận bây giờ, khi AI đã hiến cho việc học ngoại ngữ khắp địa cầu với tốc độ ánh chớp trở nên dễ dàng, thì những trang của Truyện Núi Đồi Và thảo nguyên, Con Gái viên đại uý, Tội ác và Trừng phạt, Đèn không hắt bóng,.. vẫn là “giáo án” cho tôi vì khi đọc những trang sách ấy, tâm trí ta được du ngoạn ở một vùng đất khác, văn hóa khác, nhưng tất cả đều sáng đẹp, êm đềm và thân thuộc, bằng những câu, từ, hình ảnh thuần Việt.

Có thể nói các tác phẩm được GS Cao Xuân Hạo dịch rất chuẩn xác nhưng ranh giới “văn dịch” đã bị xóa hoàn toàn. Trong địa hạt “cấu trúc ngữ pháp, ngữ âm”, có thể những nghiên cứu và quan điểm của ông còn gây tranh cãi hay phản bác, nhưng riêng dịch thuật, GS Cao Xuân Hạo đã khiến tất cả những người cùng thời và hậu bối tâm phục, rằng ông là “dịch giả khiến bản dịch không xấu hổ, có thể đứng đàng hoàng bên cạnh nguyên tác, không hề "phản" cũng không hề hạ thấp chất văn trong nguyên tác mà lại thăng hoa chất văn trong Việt ngữ” (nhà thơ Thanh Thảo, xuanhao.com), “Tiếng Việt của thầy Cao Xuân Hạo thật sự sang trọng nhưng gần gũi, thực sự khiến chúng ta tự hào khi có thể dùng lưu loát và âu yếm gọi nó là tiếng mẹ đẻ”. (Dịch giả Hà Hoài Thu).

Ông là một trong những nhà ngôn ngữ học hàng đầu của Việt Nam, người đã có nhiều đóng góp và ghi dấu ấn cho sự phát triển của tiếng Việt, đặc biệt trong ngành ngữ âm, ngữ pháp và ngôn ngữ học cấu trúc. Siêu ngoại ngữ, dùng tiếng Pháp, Anh, Nga khiến những giáo sư ngôn ngữ bản địa còn kinh ngạc, là dịch giả hơn 25.000 trang của những tác phẩm kinh điển (hiện vẫn đang được tái bản và nằm trên kệ sách của rất nhiều gia đình).

alt
Truyện Núi Đồi Và thảo nguyên do Cao Xuân Hạo dịch. | Nguồn: Kim Đồng
alt
Tội ác và Trừng phạt. | Nguồn: Tiki

Có thể chủ quan mà nói rằng ông là dịch giả yêu tiếng Việt nhất. Và điều đặc biệt khiến những người sống bằng chữ hết sức kính trọng là: Dù được xem là bậc thầy của Ngôn ngữ học, nhưng GS Cao Xuân Hạo đã viết: “Riêng tôi bao giờ cũng tự nghĩ về mình như một người học trò vĩnh cửu, chưa bao giờ có ý nghĩ thôi học, một anh học trò của mọi người, từ những tác giả kinh điển của ngôn ngữ học đến các tác giả vô danh của kho tàng văn học dân gian, từ các thầy đã trực tiếp hay gián tiếp dạy tôi cho đến các bạn đồng nghiệp, trong đó có cả những người mang tiếng là học trò của tôi” (1998). Trong cuốn sách Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt, ông khẳng định: “Linh hồn của tiếng Việt không thể mất, cái ý vị vô song của ca dao tục ngữ, của những câu Kiều, những câu ngâm của người chinh phụ vẫn còn sống mãnh liệt trong tiếng nói hằng ngày của dân ta, trong thơ của Nguyễn Bính, Tố Hữu hay Chế Lan Viên và vẫn làm cho những nam thanh nữ tú mặc quần jeans hay váy đầm thời nay rung động”. Ông chẳng phải là một định nghĩa sống động, súc tích về “căn tính Việt” trong ngôn ngữ hay sao?

Thành tựu của ba cuộc đời, ba người thầy uyên bác, minh tuệ này đều gắn bó với đời sống, tôn vinh đời sống, trân trọng trí tuệ Việt Nam. Có lẽ chính vì vậy mà họ cũng được nhân dân yêu quý và ghi nhớ. Với đất nước, họ là danh nhân, với nhân dân, họ tự nhận mình là học trò không ngừng học hỏi.

Với những thế hệ sau, ba giáo sư vĩnh viễn là những người thầy vĩ đại của trí tuệ, niềm tự hào dân tộc.