Bất kỳ ai dạy ta nên người đều có thể trở thành thầy của chúng ta. Thậm chí, cộng đồng mạng còn nói vui, chế meme, 20 tháng 11, ta nên mang quà đến tặng người yêu cũ, vì đây cũng là người cho ta những bài học, trải nghiệm tình yêu đầu tiên, ngọt ngào có mà cay đắng cũng không ít!
Thực tế cho thấy, “thầy” không chỉ là danh xưng gói gọn trong khuôn viên trường học mà còn hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời sống, từ "thầy hướng đạo tinh thần” đến "thầy chữa lành”.
Nhưng nghiêm túc một chút, trong tháng nhắc nhớ ơn này, thử ngẫm, ta đã được "học” qua bao nhiêu thầy trong những người thầy dưới đây?
1. Không Thầy đố mày làm nên!
Nhiều người cho rằng, câu tục ngữ này là của một bà mẹ Việt nói với con mình. Thầy ở đây, là người dạy học, dạy tri thức, trước tiên là thầy đồ, sau này trở thành thầy giáo. ngoài dạy văn, còn có thầy dạy võ, từ gốc Hán hiện giờ vẫn được dùng là sư phụ.
Xưa không có thi tuyển xếp lớp nhưng muốn được ai đó cho phép gọi là “sư phụ”, được “bái sư”, các học trò đều phải vượt qua các vòng sát hạch đầy tính cá nhân và sáng tạo của các thầy. Và, rất thường xuyên, các phụ huynh phải có lễ vật, lòng thành mong muốn con em mình được theo học trước các kỳ sát hạch khó khăn còn có khi hơn cả kén rể!
Được ai đó cho phép gọi là thầy đã khó, với thầy giỏi, càng khó hơn!
Mối quan hệ thầy – trò ngày xưa được đặt trong hệ giá trị “quân – sư – phụ”, tức coi thầy ngang hàng với vua và cha, tượng trưng cho quyền uy và chuẩn mực đạo đức. Thế nên, nếu xuyên không trở lại làm học trò… ngày ấy, ngoài chuyện luôn nói năng khiêm nhường, cúi đầu chào lễ phép thời nào cũng làm, chúng ta còn phải thưa “thầy”, xưng “trò”, không thoải mái xưng “em” như ngày nay.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, hình ảnh người thầy gắn liền với tri thức, đạo lý và phẩm hạnh. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, thầy là người “truyền đạo, thụ nghiệp, giải hoặc” – người dạy chữ, dạy lễ nghĩa và dẫn đường cho học trò bước vào đời. Từ “thầy đồ”, “thầy khóa”, “thầy học”, “tiên sinh” đều hàm ý tôn kính, khẳng định địa vị đặc biệt của người làm nghề dạy học. Câu Không thầy đố mày làm nên chắc chắn người Việt nào cũng đã từng được nghe qua.
Ngoài truyền đạt kiến thức, thầy còn gánh trọng trách dạy làm người, là tấm gương đạo đức và trí tuệ. Không phải ngẫu nhiên mà có câu nói "nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong tất cả những nghề cao quý”, vì danh xưng “thầy” đã vượt lên trên nghĩa nghề nghiệp, trở thành biểu tượng của tri thức, trách nhiệm và lòng tận tụy.
Trải qua nhiều thế kỷ, dù xã hội biến đổi, phát triển đến đâu, hình ảnh “người thầy dạy tri thức” vẫn giữ nguyên giá trị nền tảng, là cội nguồn của tinh thần hiếu học và truyền thống “tôn sư trọng đạo” trong đời sống người Việt.
2. Thầy là cầu nối hay người phiên dịch đặc biệt?
Ni sư Huỳnh Liên là hình ảnh tiêu biểu cho một người thầy hướng đạo tinh thần trong Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX. Là người sáng lập Ni giới Khất sĩ Việt Nam, bà không chỉ dành đời mình cho tu học mà còn lan tỏa lòng từ bi qua các hoạt động thiện nguyện, giáo hóa và giúp đỡ cộng đồng.
Bên cạnh người dạy học, xã hội Việt Nam còn có nhiều “thầy” khác – những người dẫn dắt tinh thần và khai sáng đạo lý. Họ là các vị “thầy chùa”, “thầy pháp”, “thầy cúng”, “thầy địa lý”, “Thầy mo“.. những người có tri thức về tôn giáo, triết lý hoặc tín ngưỡng dân gian.
Ở góc độ xã hội học, ý niệm “người thầy” đã được mở rộng.
Thực tế, từ chùa chiền đến điện phủ, từ nhà giảng đạo đến nơi xem tướng, “thầy” là người soi đường cho tâm thức, giúp con người nhận ra giá trị tinh thần và củng cố niềm tin tâm linh.
Bất cứ ai sống "theo hệ tâm linh” khi gặp chuyện bất trắc đều có thể tìm đến "thầy bói”: trước khi thi Đại học, sau khi mất việc, chia tay người yêu,... Thầy nào được viral "bói quẻ nào trúng quẻ nấy” càng đông khách. Có người thích bói chỉ tay, người thích bói bài, chung quy là tâm lý mong muốn tìm kiếm sự an ủi, giải tỏa lo lắng về tương lai và thỏa mãn tính tò mò về vận mệnh. Và nếu bạn cho rằng, đi xem bói, gặp thầy bói, có thể khiến nút bấm overthinking được khởi động thì xin thưa rằng, rất nhiều người đi xem bói với tâm thế, nói tốt thì nghe và tin, còn dự đoán tương lai xấu thì... thôi, bỏ qua.
Bỏ qua những tranh luận về quan điểm “mê tín hoặc không”, các vị thầy này là cầu nối giữa con người và thế giới siêu hình, được xây dựng bởi niềm tin tâm linh, giúp con người lý giải vận mệnh, nhân quả và lẽ sống. Người học đạo, người xin lễ hay người tìm lời khuyên đều gọi họ là “thầy” – như một cách để thể hiện lòng tôn trọng với người thông tuệ, hiểu sâu, có thể đọc hiểu giúp họ những thông điệp từ vũ trụ. Nhiều thầy còn nói vui, tôi chẳng có tài gì, chỉ nhận sứ mệnh của một phiên dịch đặc biệt, cho một ngôn ngữ đặc biệt.. mà đã là phiên dịch, thì cũng có khi nghe nhầm nên hiểu nhầm, dịch nhầm cũng là chuyện bình thường!
3. Thầy “chữa lành” theo cả hai tầng nghĩa
Nói về chữa lành, ngoài tinh thần, danh xưng “thầy” còn được dùng để chỉ những người mang tri thức chữa bệnh và cứu người. Từ xa xưa, người dân gọi “thầy thuốc”, “thầy lang” để nói về những người am hiểu y thuật, biết bốc thuốc, bắt mạch, chữa trị bằng kinh nghiệm dân gian hoặc y học cổ truyền. Chúng ta có những danh y, thầy thuốc nổi tiếng như thiền sư Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, giáo sư Hồ Đắc Di, giáo sư Tôn Thất Tùng.
Và những người thầy thuốc, chính là người giúp chúng ta được mẹ tròn con vuông trong bệnh viện, đưa chúng ta đến với thế giới, và cũng trong bệnh viện, những người thầy thuốc sẽ đưa tiễn ta khi kết thúc cuộc đời.
Ngày nay, khái niệm “người thầy chữa lành” được hiểu rộng theo hướng khoa học và nhân văn: đó có thể là bác sĩ, chuyên viên tâm lý, chuyên viên trị liệu hoặc những người giúp người khác vượt qua tổn thương tinh thần.
4. Thầy là bất cứ ai dạy ta nên người
Ngày nay, cùng với sự phát triển của giáo dục, công nghệ và toàn cầu hóa, khái niệm “thầy” đã trở nên rộng mở hơn bao giờ hết. Người thầy không chỉ là người đứng lớp, mà có thể là “mentor”, “coach”, “trainer” hay bất kỳ ai giúp người khác hiểu biết, trưởng thành và sống tốt hơn.
Mối quan hệ thầy – trò trở nên bình đẳng, linh hoạt và đa dạng, khi người học có thể xưng “em”, “bạn”, thậm chí “đồng nghiệp” mà vẫn giữ được sự tôn trọng. Cách xưng hô “thầy”, “cô”, “anh”, “chị” giờ đây phản ánh tinh thần hợp tác và học hỏi lẫn nhau.
Trong xã hội tri thức mở, mỗi người đều có thể là thầy của người khác, nếu họ có khả năng truyền cảm hứng, chia sẻ kinh nghiệm và giúp người khác tiến bộ. Chính vì vậy, câu “một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy” vẫn còn nguyên giá trị, chỉ khác rằng ý nghĩa của nó đã được mở rộng.
Sở dĩ trong tiếng Việt, danh xưng “thầy” được dùng phổ biến khi nói về người truyền dạy là vì trong lịch sử ngôn ngữ và xã hội Việt Nam, đây là từ trung tính và có tính khái quát cao. “Thầy” từng được dùng để chỉ chung những người dạy học, bất kể giới tính, trước khi xuất hiện cách gọi “cô giáo” trong hệ thống giáo dục hiện đại. Trong văn hóa truyền thống, “thầy” không chỉ là nam giới mà còn là biểu tượng cho tri thức, đạo lý và vai trò dẫn dắt. Vì vậy, khi nói “người thầy”, ta không loại trừ hình ảnh người phụ nữ, mà đang nhắc đến một biểu tượng văn hóa chung của tri thức và sự tận tâm.
Dù ở bất kỳ vai trò nào, những người thầy đều mang sứ mệnh giúp con người hiểu mình và sống tốt hơn. Qua bao thời đại, danh xưng “thầy” vẫn giữ nguyên giá trị, vừa là lời gọi kính trọng, vừa trở thành biểu tượng của tri thức, lòng tận tâm và đạo đức, nuôi dưỡng văn hóa học hỏi và biết ơn của dân tộc Việt Nam.
Bất cứ ai khiến ta trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình, đều có thể là thầy của chúng ta.