Ngành Y Việt Nam là thương hiệu quốc gia xứng tầm quốc tế | Vietcetera
Billboard banner
Vietcetera

Ngành Y Việt Nam là thương hiệu quốc gia xứng tầm quốc tế

PGS.TS.BS. Lê Khắc Bảo tin rằng ngành Y Việt Nam không thua kém ai, chỉ cần dấn thân và không ngừng học hỏi, Việt Nam có thể xây dựng một nền y học nhân ái, hiện đại và xứng tầm quốc tế.

Phoebe Phạm
Ngành Y Việt Nam là thương hiệu quốc gia xứng tầm quốc tế

PGS.TS.BS. Lê Khắc Bảo dự Hội nghị Hội lồng ngực Hoa Kỳ ATS 2019. | Nguồn: Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

Tốt nghiệp bác sĩ nội trú tại Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, sau đó tu nghiệp tại Pháp, Đức, Thụy Sĩ, và Mỹ, PGS.TS.BS. Lê Khắc Bảo có nhiều cơ hội học hỏi các tiến bộ trong giáo dục y học và thực hành y khoa ở các nước tiến tiến. Đây là các chất liệu quý để ông áp dụng trong công tác giáo dục y khoa, nghiên cứu khoa học và chăm sóc người bệnh tại Việt Nam. Hiện ông là Giám đốc Trung tâm Giáo dục Y học thuộc Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, kiêm nhiệm Phó Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

Trong cuộc trò chuyện về hành trình sự nghiệp, với những góc nhìn của một chuyên gia y tế đang giữ hai vai trò đào tạo và điều trị, PGS.TS.BS. Lê Khắc Bảo đã chia sẻ sự tin tưởng của mình vào sự phát triển của ngành y Việt Nam. Với ông: Ngành Y Việt Nam là thương hiệu quốc gia xứng tầm quốc tế.

1. Tại sao Ông lựa chọn chuyên ngành hô hấp, và gắn bó với chuyên ngành này hơn 20 năm qua?

Đây cũng là câu hỏi tôi đã tự đặt ra cho mình 25 năm trước. Lúc đó tôi phải trả lời câu hỏi bản thân sẽ theo học chuyên ngành nào trong bốn chuyên ngành tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, thận học của bộ môn Nội mà tôi đang là bác sĩ nội trú năm thứ ba. Tôi đã chọn ngành học để gắn bó dựa trên ba cân nhắc: nhu cầu chăm sóc sức khỏe của cộng đồng, khả năng đáp ứng của hệ thống y tế, và cuối cùng là năng lực bản thân.

Xét về nhu cầu chăm sóc sức khỏe của cộng đồng, bệnh lý tim mạch đứng hàng đầu. Tuy nhiên bệnh lý hô hấp cũng xếp thứ hạng cao, điển hình như bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là nguyên nhân tử vong đứng thứ ba trên toàn cầu chỉ sau bệnh tim mạch và ung thư.

Xét về khả năng đáp ứng của hệ thống y tế, số bác sĩ chuyên ngành hô hấp là ít so với tim mạch. Ví dụ tại bệnh viện Chợ Rẫy nơi tôi làm bác sĩ nội trú vào thời điểm đó, khoa hô hấp được ghép chung khoa thận, ngoài ra các bệnh viện đa khoa khác cũng không có khoa hô hấp riêng. Bệnh nhân mắc bệnh hô hấp hầu hết được điều trị tại các bệnh viện chuyên khoa lao trong hệ thống chống lao quốc gia. Trong khi đó, bệnh lý hô hấp không chỉ có bệnh lao phổi mà còn có rất nhiều các bệnh hô hấp không lao khác.

Xét về năng lực bản thân, tôi là sinh viên ở tỉnh lẻ lên thành phố học, tôi bị hấp dẫn với điều mới lạ, sẵn sàng đón nhận thách thức mới. Do số người theo chuyên ngành hô hấp vào thời điểm đó còn ít, tôi tin là tôi sẽ có nhiều hơn cơ hội học và làm điều mới, phục vụ nhiều bệnh nhân hơn, trở nên có ích hơn.

25 năm qua đã minh chứng rằng định hướng này phù hợp. Tôi đã có cơ hội đi du học Pháp rất sớm, nơi tôi đã học sâu về bệnh lý hô hấp liên quan đến giấc ngủ bao gồm ngáy và ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ; tư vấn điều trị cai nghiện thuốc lá là những hướng đi mới về hô hấp vào thời điểm ấy. Tôi cũng đi sâu điều trị các bệnh hô hấp thường gặp như hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính song hành với quá trình tiến bộ trong điều trị hai bệnh này trên thế giới. Càng đi thì con đường càng rộng hơn, số người mắc bệnh hô hấp tôi phục vụ hiệu quả ngày càng nhiều hơn. Và càng lâu thì tôi càng gắn bó với chuyên ngành này.

alt
PGS.TS.BS. Lê Khắc Bảo báo cáo hội nghị | Nguồn: Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

2. So với thời điểm cách đây 20 năm, hệ thống chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp ở Việt Nam đã thay đổi ra sao? Cá nhân Ông đã có những đóng góp gì trong sự phát triển của ngành?

So với thời điểm tôi chọn đi theo chuyên ngành hô hấp, hệ thống chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp tại Việt Nam đã phát triển vượt bậc về cả số lượng và chất lượng. Hiện nay hầu như bệnh viện đa khoa lớn nào trong cả nước cũng đã có khoa hô hấp riêng biệt với các trang thiết bị và thuốc men chuyên sâu trong chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp đã được đầu tư bài bản. Số lượng bác sĩ chuyên khoa hô hấp được đào tạo bài bản tăng lên đáng kể.

Các hiệp hội nghề nghiệp về bệnh lý hô hấp cũng được thành lập và phát triển trên phạm vi cả nước. Tôi đã có cơ hội trở thành 1 trong 5 sáng lập viên thành lập Hội Hô hấp TP. Hồ Chí Minh và trở thành Tổng thư ký đầu tiên của Hội. Sau đó, tôi tiếp tục tham gia Ban vận động thành lập Hội Hô hấp Việt Nam và hiện nay là Ủy viên Ban thường vụ của Hội. Tôi tham gia thành lập Hội Y học Giấc ngủ Việt Nam và giữ vai trò Phó chủ tịch hội. Các hội nghề nghiệp là môi trường kết nối, hợp tác, chia sẻ kiến thức giữa các bác sĩ chuyên ngành hô hấp, giúp nâng cao năng lực cho từng hội viên và cho cả chuyên ngành hô hấp. Bản thân tôi tham gia tích cực các hoạt động đào tạo y khoa liên tục cho đồng nghiệp, tham gia biên soạn các hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh lý hô hấp, bệnh rối loạn hô hấp liên quan giấc ngủ.

Triển khai các kỹ thuật chuyên môn trong chuyên ngành hô hấp cũng là niềm đam mê của tôi. Với năng lực về tư vấn điều trị cai nghiện thuốc lá, chẩn đoán và điều trị rối loạn hô hấp liên quan giấc ngủ, tôi đã khởi đầu hoạt động tư vấn điều trị cai nghiện thuốc lá trong cơ sở y tế, và cộng tác với quý phòng chống tác hại thuốc lá quốc gia lan tỏa hoạt động này ra nhiều cơ sở y tế trong cả nước.

Tôi là tác giả chính biên soạn hướng dẫn quốc gia tư vấn điều trị cai nghiện thuốc lá tại Việt Nam, đã được Bộ Y tế phê duyệt và đưa vào sử dụng ngày 17/12/2018. Tôi cũng thành công trong xây dựng và phát triển một trong các phòng thăm dò giấc ngủ (sleep lab) đầu tiên tại Việt Nam giúp điều trị cho người bệnh có ngáy và ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ, một chứng bệnh rất thường gặp nhưng chưa được quan tâm và điều trị đúng mức tại Việt Nam.

3. Theo Bác sĩ, AI và hình ảnh y khoa số hóa đã hỗ trợ gì trong chẩn đoán bệnh hô hấp? Trong tương lai gần, công nghệ nào có thể tạo ra bước ngoặt lớn nhất trong điều trị bệnh hô hấp?

Trong chẩn đoán bệnh hô hấp, AI và công nghệ hình ảnh y khoa số hóa đang trở thành một trợ thủ đắc lực trong chẩn đoán hình ảnh. Chẩn đoán bệnh lý hô hấp rất cần dùng chẩn đoán hình ảnh. AI có thể giúp bác sĩ hô hấp tránh bỏ sót tổn thương khi phân tích kết quả chẩn đoán hình ảnh ví dụ phân tích phim XQ, CT scan lồng ngực. AI còn có thể đề xuất những chẩn đoán, những khả năng khác nhau dựa trên dữ liệu hình ảnh và các mô hình học máy. Tất nhiên, AI không thể thay thế vai trò quyết định của bác sĩ, nhưng nó đóng vai trò như một công cụ giúp bác sĩ tập trung chú ý vào những điểm quan trọng, từ đó nâng cao độ chính xác và tốc độ chẩn đoán. Khi quá trình chẩn bệnh trở nên ít sai sót hơn, hiệu quả điều trị sẽ tốt hơn và người bệnh được chăm sóc kịp thời hơn.

Trong điều trị bệnh lý hô hấp, AI có thể giúp trong đề xuất chế độ kháng sinh tối ưu trong bối cảnh đa đề kháng kháng sinh. Gần đây AI cũng được đưa vào quá trình nghiên cứu và phát triển thuốc mới dùng trong điều trị bệnh hô hấp. AI có thể đề xuất các mô hình phù hợp dùng trong nghiên cứu mô hình dựa trên nền tảng dữ liệu lớn từ các thử nghiệm lâm sàng đã được thực hiện trước đây. Từ đó cho phép rút ngắn công đoạn nghiên cứu và phát triển thuốc giúp nhanh chóng đưa các thuốc mới vào phục vụ người bệnh với hiệu quả và an toàn cao.

Tôi tin rằng nếu công nghệ tiếp tục được ứng dụng đúng cách, kết hợp hài hòa giữa trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, hình ảnh y khoa và chuyên môn bác sĩ, thì lĩnh vực hô hấp sẽ còn phát triển mạnh hơn nữa trong thời gian tới.

alt
PGS.TS.BS. Lê Khắc Bảo làm chủ tọa tại Hội nghị Thường niên Hội Y học Giấc ngủ Việt Nam. | Nguồn: Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

4. Việc được đào tạo, tiếp xúc với nhiều nền y học tiên tiến đã giúp Ông nhìn nhận năng lực và tiềm năng phát triển của ngành y Việt Nam như thế nào?

Tôi may mắn có cơ hội được học tập và làm việc tại tại Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ, là các quốc gia có nền y học phát triển. Học tập trong vị trí là bác sĩ nội trú tại bệnh viện đại học Bordeaux 2, cộng Hòa Pháp, tôi quan sát được cách một bệnh viện vận hành phục vụ người bệnh như thế nào. Học tập trong vị trí là học viên cao học tại trường Y khoa Harvard, tôi quan sát được cách một trường đại học đào tạo nguồn lực y tế cho xã hội như thế nào. Học tập trong vị trí là nghiên cứu viên tại tổng hành dinh tập đoàn dược phẩm Novartis tại Basel, Thụy Sĩ, tôi quan sát được cách một tập đoàn dược phẩm phát triển thuốc mới phục vụ cho nhu cầu người bệnh như thế nào.

Các trải nghiệm cụ thể đó giúp tôi nhận định nghề y thực ra là một hệ sinh thái lồng ghép chặt chẽ giữa các yếu tố nền tảng bên dưới là nền kinh tế vững chắc với các chính sách công ưu tiên phát triển y tế và các biểu hiện bên ngoài thông qua đầu tư vào chiều sâu cho giáo dục y học, tăng cường nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, lan tỏa văn hóa chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm.

Đối chiếu với thực trạng tại Việt Nam, tôi tin tưởng rằng Việt Nam có tiềm năng và cả năng lực để ngành y có thể phát triển đạt đẳng cấp trong khu vực và thế giới. Trước hết là yếu tố nền tảng, Việt Nam đang là một trong các nền kinh tế có tốc độ phát triển rất nhanh chóng trên thế giới. Chính phủ đã và đang ưu tiên phát triển giáo dục và y tế với các thay đổi quan trọng về cơ chế chính sách liên quan y tế, với các đầu tư lớn để phát triển ngành y tế Việt Nam. Tôi cho rằng đây là yếu tố then chốt.

Xét về yếu tố biểu hiện ra bên ngoài, hoạt động giáo dục y học đang đổi mới từng ngày, cơ hội một bác sĩ được giao lưu, học hỏi với đồng nghiệp quốc tế là quá lớn thông qua các học bổng từ nhiều nguồn, thông qua các hội nghị, hội thảo trong và ngoài nước được tổ chức rất, rất thường xuyên. Nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ trong y tế ngày càng nhiều hơn thể hiện qua số lượng các công bố quốc tế qua bài báo cáo hội nghị hoặc đăng trên báo của các y bác sĩ Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Đầu tư trang thiết bị hiện đại cho cơ sở y tế đang gia tăng nhanh chóng giúp thu hẹp nhanh chóng khoảng cách về kỹ thuật giữa Việt Nam, khu vực và thế giới. Ngày càng có nhiều ca bệnh khó phức tạp được giải quyết thành công tại Việt Nam, khẳng định chất lượng chăm sóc y tế ở Việt Nam so với thế giới.

Bên cạnh các yếu tố vật chất kể trên, yếu tố văn hóa và con người Việt Nam cũng là một điểm sáng nữa. Các bác sĩ Việt Nam rất chịu khó học hỏi, và khi được trao cơ hội học tập và làm việc với bạn bè quốc tế, chúng ta phần đông đều học tập được rất hiệu quả, sau đó rất uyển chuyển khi áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể tại Việt Nam.

5. Việc tham gia các chương trình đào tạo, hội thảo và nghiên cứu quốc tế đã đóng vai trò thế nào trong việc nâng cao năng lực của đội ngũ bác sĩ Việt Nam, theo Ông?

Tham gia các chương trình đào tạo hay hội thảo quốc tế, bác sĩ Việt Nam có cơ hội đặt mình trong một bối cảnh rộng hơn. Chúng ta thấy rõ bản thân đang ở đâu, đang mạnh gì, còn thiếu gì. Cái thấy sâu sắc này giúp ta tránh được hai trạng thái cực đoan: “tự tôn” vì tưởng chẳng ai biết nhiều hơn mình, “tự ti” vì tưởng rằng nước ngoài cái gì cũng hay hơn mình. Chúng ta có được một thái độ phù hợp hơn: “tự tin” vì đã hiểu rõ mình biết cái gì và cả không biết cái gì, từ đó mà chúng ta dám mạnh dạn chấp nhận thử thách, dám làm điều mình biết nhưng cũng luôn cầu tiến, học tập vươn lên bổ sung những điểm thiếu sót.

Bên cạnh thay đổi tư duy và nhận thức, tham gia các chương trình đào tạo hay hội thảo quốc tế là một cơ hội để kết nối với thế giới. Kết nối tốt cho phép mở ra các cơ hội học tập và làm việc chung, thúc đẩy nền y tế Việt Nam hội nhập sâu hơn, khẳng định vị thế chuyên môn trên bản đồ y học thế giới.

6. Là Giám đốc Trung tâm Giáo dục Y học thuộc Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, Ông đánh giá sinh viên y khoa Việt Nam hiện nay đang mạnh và yếu ở điểm nào so với sinh viên quốc tế?

Về điểm mạnh, sinh viên Y khoa Việt Nam được thừa hưởng sức mạnh của thời đại, của thế hệ gene Z: tiếp cận sớm và làm chủ công nghệ, có kỹ năng ngoại ngữ, tư duy thẳng thắn, chủ động. Các ưu điểm này giúp các bạn tiếp cận và nhanh chóng làm chủ các kiến thức mới. Về động cơ học tập, các bạn phần lớn hiểu rõ bản thân muốn làm gì, vì sao làm như thế, và động cơ học tập càng ngày càng thực tế hơn xưa: số lượng sinh viên học tập chỉ là làm theo ý muốn của cha mẹ, hay chỉ vì “ham danh bác sĩ” vẫn còn nhưng đã ít hơn trước rất nhiều. Thay đổi môi trường xã hội ủng hộ nghề bác sĩ, thể hiện qua tỷ lệ bác sĩ thất nghiệp thấp, mức đãi ngộ vật chất dành cho bác sĩ, dù chưa thật tương xứng, nhưng đang được cải thiện liên tục, cũng là một trong các lý do nuôi dưỡng động lực của các bạn. Và thực sự thì điểm tuyển đầu vào các trường y khoa luôn ở mức cao qua nhiều năm tháng.

Về điểm yếu, sinh viên Y khoa Việt Nam bị ảnh hưởng một nét văn hóa chung là mong muốn được người khác công nhận quá cao, áp lực phải có điểm số “cao thật cao” luôn đè nặng lên các bạn. Tâm lý chuộng điểm số này cản trở người sinh viên tìm tòi phát hiện cái mới vì sợ sai, sợ bị đánh giá. Sinh viên sẽ chọn đi theo lối mòn cũ, “đúng theo ý thầy”, để được đánh giá điểm cao. Tâm lý chuộng điểm số còn có một tai hại khác là làm cho người sinh viên càng lúc càng bị dồn vào hai thái cực hoặc là “tự tôn” nếu “may mắn” có điểm cao và “tự ti” nếu “xui xẻo” bị điểm thấp. “Tự tôn” và “tự ti” đều là rào cản cho quá trình cởi mở, chia sẻ, học hỏi cái mới. Tôi mong nhà trường sẽ dẫn chuyển hình thức đánh giá không dựa trên điểm số nữa, từ đó các bạn sinh viên có thể vượt qua được áp lực “điểm số” để thật sự học với tinh thần mở, từ thầy cô, bạn bè, và cả từ chính những va vấp của mình.

alt
PGS.TS.BS. Lê Khắc Bảo chấm thi poster cho đồng nghiệp tại Hội nghị Giáo dục Y học. | Nguồn: Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

7. Theo Ông, trình độ chuyên môn của bác sĩ hô hấp Việt Nam hiện nay đang ở mức nào so với các nước trong khu vực?

Xét riêng về năng lực chuyên môn, tôi cho rằng bác sĩ hô hấp Việt Nam không hề thua kém các bác sĩ trong khu vực (Cười). Thậm chí, nhờ số lượng bệnh nhân đông và môi trường làm việc nhiều thử thách, chúng ta có kinh nghiệm lâm sàng rất phong phú. Tôi cho rằng điểm mạnh nhất của BS Việt Nam là khả năng thích nghi và ứng biến linh hoạt. Vì thường phải xoay xở trong điều kiện giới hạn về nguồn lực, nên khả năng xử lý lâm sàng rất nhạy bén. Tuy nhiên một điểm trừ cho các bác sĩ Việt Nam là khả năng ngoại ngữ và kỹ năng trình bày. Chúng ta vẫn cần cải thiện kỹ năng ngoại ngữ, trình bày, và công bố khoa học, đây là rào cản khiến nhiều kiến thức quý chưa được lan tỏa.

8. Là hậu bối của Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - một trí thức cách mạng tiêu biểu, trong những ngày cả nước rộn rã mừng 80 năm Độc lập, Ông có thể chia sẻ gì với các bác sĩ trẻ, sẽ lại là hậu bối của mình?

Tôi rất tâm đắc với con đường mà bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã chọn. Là một trí thức được đào tạo bài bản ở Pháp, có thể ở lại, sống cuộc đời giàu sang. Nhưng Thầy đã trở về khi đất nước còn gian khó để đem tri thức và nhiệt huyết phục vụ cho những người yếu thế nhất. Đây là một lựa chọn dấn thân, lựa chọn lý tưởng. Lựa chọn đó truyền cảm hứng rất lớn cho thế hệ sau trong đó có tôi. Cứ mỗi lần học tập xong ở nước ngoài, tôi luôn nghĩ là bản thân sẽ áp dụng như thế nào những điều học tập được ở Việt Nam. Tôi tin rằng Việt Nam là nơi tôi có nhiều cơ hội để đóng góp được nhiều hơn cả, cho học trò của tôi, cho người bệnh của tôi và cho cả cộng đồng chung. Tôi tin và làm theo tinh thần mà Thầy Phạm Ngọc Thạch đã truyền lại: làm nghề y không chỉ để chữa bệnh, mà còn để đồng hành cùng đất nước trong hành trình phát triển.

Tôi luôn mong mỏi một ngày nào đó, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, nơi tôi đang giảng dạy là cũng đào tạo được những bác sĩ chất lượng cao như trường Y khoa Harvard có thể đào tạo; Bệnh viện Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, nơi tôi đang làm việc cũng có thể khẳng định giá trị chuyên môn lẫn tinh thần phụng sự nhân văn như các bệnh viện hàng đầu trên thế giới khẳng định được.

Hôm nay khi nhìn lại quá trình hơn 25 năm qua, tôi tin rằng những điều mình đang làm, đã làm và sẽ làm, dù nhỏ bé, cũng đang góp phần vào một bức tranh lớn hơn: một nền y học Việt Nam mạnh mẽ, nhân ái và xứng tầm quốc tế. Ngành y Việt Nam đã, đang và sẽ là một thương hiệu quốc gia rất đáng tự hào.

Xin trân trọng cảm ơn Ông!