Xã hội đang chứng kiến một nghịch lý khó hiểu. Khi cuộc sống không ngừng phát triển, các đô thị mọc đều tăm tắp, sự tiện nghi tưởng chừng sẽ mang lại cho con người sự thỏa mãn và hài lòng. Nhưng từng ngày, họ đang dần xa rời chính những thứ do mình khát khao kiến tạo. Các thành phố đông đúc, ngột ngạt, tiếng còi xe lấn át, ánh đèn điện che khuất tầm nhìn buộc họ phải quay về tìm lại những điều nguyên sơ.
Và khi nhắc đến những công trình kiến trúc dung hòa được yếu tố nguyên sơ và hiện đại, người ta ngay lập tức nhớ đến cái tên Võ Trọng Nghĩa - một trong những kiến trúc sư Việt Nam nổi tiếng trong nước lẫn quốc tế. Từ Nhà cho cây (House for Trees) đến các trường học, quán cà phê, trung tâm nghỉ dưỡng, các công trình của anh không chỉ mang thiên nhiên vào nhà, mà còn trả lại hơi thở tự nhiên cho những nơi tưởng như đã khô cằn bởi bê tông, sắt thép. Tuy nhiên, Võ Trọng Nghĩa đến Have A Sip hôm nay không chỉ với tư cách của một kiến trúc sư.
Trước kia mọi người gọi anh là Kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa. Bây giờ anh muốn mọi người biết đến mình với danh xưng gì?
Trước đây, mọi người thường gọi tôi là kiến trúc sư vì tôi điều hành công ty kiến trúc Võ Trọng Nghĩa. Hiện tại, bên cạnh công việc trong lĩnh vực kiến trúc, tôi còn là giáo sư thỉnh giảng Đại học Pennsylvania, đồng thời là giáo sư thỉnh giảng về thiền và sức khỏe tâm lý tại Đại học Taipei. Ngoài ra, mọi người còn có thể gọi tôi là một thiền sinh nữa. Dù được gọi bằng chức danh hay vai trò nào, tôi đều cảm thấy hạnh phúc, bởi đó đều là những hành trình mà tôi đang nghiêm túc theo đuổi.
Bỗng dưng một ngày, anh thức dậy và muốn tìm đến thiền hay còn lý do gì sâu xa ẩn đằng sau quyết định đó?
Trước khi bắt đầu thực hành thiền, tôi từng trải qua một giai đoạn trầm cảm ẩn. Những tổn thương nối tiếp nhau xuất hiện, khiến tôi chìm trong cảm xúc tiêu cực. Tôi nhận ra mình cần làm điều gì đó để vượt qua tình trạng này. Đức Phật từng dạy rằng, khổ đau đôi khi lại chính là duyên lành để con người có thể bắt đầu con đường tu tập. Và như một cơ duyên, tôi đã tìm đến thiền.
Khi đó, nhiều công ty đối tác ngừng hợp tác vì không thể liên lạc với tôi. Tôi cũng đã chuẩn bị sẵn tâm thế cho khả năng công ty phá sản bất kỳ lúc nào. Rất may, cho đến thời điểm này, điều đó vẫn chưa xảy ra (cười). Gia đình tôi, từ vợ, cha mẹ đến anh chị em, đều phản đối và tìm cách ngăn cản. Dù vậy, tôi vẫn lựa chọn bước đi trên con đường mình tin là đúng.

Anh nhiều lần nhắc đến hai chữ “khổ đau”. Vậy những nỗi khổ nào sâu sắc đến mức đã thôi thúc anh phải tìm đến thiền?
Mọi thứ bắt đầu từ ký ức thời thơ ấu. Tôi sinh ra tại vùng vĩ tuyến 17, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình — nơi từng là tọa độ chiến tranh, in hằn dấu tích của bom đạn khốc liệt. Cả làng tôi khi ấy đều sống trong cảnh nghèo khó, khổ cực, trẻ con trong làng hiếm khi được đi học đầy đủ. Tôi may mắn là một trong số ít những đứa trẻ có cơ hội đến trường.
Thế nhưng, việc đến trường không phải là trải nghiệm êm đềm. Tôi bị đánh rất nhiều, từ trên đường cho tới lớp học. Trong lớp học khi đó học sinh nhiều độ tuổi đều được xếp chung. Ai đó lớn hơn, “ngứa mắt” hoặc không ưa, là đánh. Dẫu vậy, so với việc lao động chân tay vất vả thì đi học thời đó vẫn dễ chịu hơn, nên tôi chọn tiếp tục đi học.
Khi đã rời xa ngôi làng mang nhiều ký ức tuổi thơ đầy tổn thương, anh có vui vẻ hơn không?
Năm 20 tuổi, tôi nhận được học bổng học bên Nhật và gặt hái được một số thành tựu, cũng được các Giáo sư chú ý khi hoàn thiện đồ án tốt nghiệp Thạc sĩ chỉ trong vòng 03 tháng. Tôi bắt đầu tự tin hơi thái quá vào năng lực của mình, nghĩ rằng ở đâu mình cũng phát triển được. Thế là tôi mang những công trình của mình về Việt Nam, và rồi vô tình dẫn mình vào con đường… thất bại. Phát minh, ý tưởng kiến trúc của tôi lúc đó không được ai đón nhận. Chính cú va đập này đã vô tình kích hoạt cơn trầm cảm ẩn đã ngự trị từ lâu trong tôi.
Ngay cả khi đã thành lập công ty riêng, những sang chấn ấy vẫn tiếp tục đeo bám. Tôi không hiểu vì sao mình lại căm ghét hầu hết mọi người xung quanh, thậm chí có những thời điểm tôi nghĩ rằng mình ghét cả loài người. Đã từng có lần, trong cơn tức giận, tôi ném đồ về phía cộng sự và yêu cầu họ nghỉ việc. Khi chủ đầu tư không hài lòng với công trình, khi dự án không đạt tiến độ, tôi dễ dàng nổi giận. Tôi cứ lao vào làm việc với mong muốn được công nhận, mong có khách hàng, rồi lại tự ôm ngực đau khổ. Từng việc nhỏ tích tụ dần theo thời gian, luẩn quẩn mãi khiến tôi không thoát ra được.
Chứng tỏ trước kia anh là người rất khó để người khác làm việc cùng, tại sao các đối tác vẫn chọn? Là vì anh quá giỏi, hay còn lý do nào khác?
Thật lòng mà nói, tôi cảm thấy mình may mắn nhiều hơn là tài giỏi. Một chuỗi sự kiện xảy ra trong cuộc đời khiến tôi tin là như vậy.
Lấy ví dụ như ngày trước, nhà nghèo không có điều kiện học thêm, tôi còn phải vừa đi học vừa đi làm ruộng, trồng rau để phụ giúp. Ngay cả tài liệu ôn thi đại học, tôi cũng không có tiền để mua. Vậy mà bằng một cách nào đó, tôi vẫn thi đậu chuyên Toán của tỉnh Quảng Bình, rồi sau đó đậu cả ba trường đại học. Dù không đậu thủ khoa như một số lời đồn thổi, nhưng kết quả ấy đối với tôi đã là một phép màu.
Những cơ hội đặc biệt vẫn tiếp tục đến sau này. Tôi được chọn nhận học bổng của Chính phủ Nhật Bản, và trong số 24 sinh viên, chỉ còn 6 người được giữ lại để tiếp tục học lên cao — tôi nằm trong số đó. Tôi chưa bao giờ là người học hành quá chăm chỉ hay vượt trội về thành tích. Tôi vẫn sống thoải mái, dành thời gian cho việc khám phá và tận hưởng cuộc sống. Vậy nên, thật khó để tin rằng từng ấy may mắn chỉ là sự ngẫu nhiên. Tôi tin rằng có một sự sắp đặt nào đó, và tôi là người được trao cơ hội.

Chất liệu tuổi thơ và kí ức làng quê đã ảnh hưởng thế nào đến phong cách thiết kế của anh?
Ảnh hưởng rất lớn. Cái thời Quảng Bình vừa bước ra khỏi giai đoạn chiến tranh, khi cái nghèo còn đeo bám và miếng ăn là thứ ám ảnh người dân nhất. Thời tiết khắc nghiệt, nắng nóng gay gắt, lại không có điện, con người buộc phải tìm cách để thích nghi với thiên nhiên. Những bóng cây to, những mặt ao là nơi trú ngụ mát mẻ nhất. Để xua đi cái nóng, người ta thường dội nước lên sàn nhà rồi nằm trực tiếp lên đó. Bản thân tôi, trong những lần đi chăn bò, thích nhất là được chui vào những tán cây rợp bóng hay nằm ngủ tạm trong những cánh đồng đọng nước.
Những ký ức tưởng chừng như mộc mạc và giản dị ấy lại trở thành chất liệu quý giá, giúp tôi nuôi dưỡng sự kết nối sâu sắc với thiên nhiên. Tôi muốn mang những ký ức thiên nhiên tuổi thơ tiếp tục "thở" trong từng công trình kiến trúc hiện đại hôm nay của mình.
Theo anh, vì sao con người ngày nay lại có xu hướng tìm về với thiên nhiên? Có phải vì họ đã chán ngấy bê tông cốt thép?
Tôi tin rằng không có điều gì là ngẫu nhiên.
Nhìn vào số lượng người mắc bệnh tâm lý về rối loạn lo âu, trầm cảm và rối loạn lưỡng cực những năm gần đây ở các đô thị chật hẹp của châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, đặc biệt là sau Covid, chúng ta thấy rõ nó tăng lên một cách dữ dội. Không biết từ lúc nào, trầm cảm gần như đã trở thành một căn bệnh thế kỷ. Đây là một tín hiệu cực mạnh đối với xã hội để tái thiết lại kiến trúc hạ tầng, nâng cao rèn luyện sức khỏe tâm lý.
Trước khi biết đến thiền, tôi từng rất đau khổ vì bị nhiều người ghét, và chính tôi cũng ghét mọi người xung quanh. Thiền đã giải thoát và giúp tôi không còn đau khổ nữa. Tôi muốn thiền cũng giúp được nhiều người khác như mình.

Bê tông và cốt thép, suy cho cùng, cũng là một biểu hiện của khát khao an toàn. Việc con người muốn sống trong những không gian kiên cố, vững chãi là điều hoàn toàn dễ hiểu. Tuy nhiên, đó cũng là con dao hai lưỡi. Khi quá sa đà vào những lớp vỏ vật chất, con người dần đánh mất mối liên hệ thuần khiết và nguyên bản nhất: kết nối với thiên nhiên. Là một Kiến trúc sư, tôi có nhiệm vụ đưa con người đến gần hơn với những thứ bị ngắt kết nối đó. Dù là một căn nhà nhỏ cũng cần có mảng xanh, từng mảng xanh dần được xây nên rồi sẽ trở thành xu hướng.
Tóm lại rằng, dù ở vai trò nào, tôi cũng muốn mang lại hạnh phúc cho mọi người xung quanh. Công trình lớn nhất, vĩ đại nhất trên cuộc đời này không đâu khác chính là "công trình nội tại", tôi thật lòng muốn xây nên sự bình an, vững chãi trong tâm con người.