Thời nay, với nhiều người, ăn cơm nghe có vẻ... không sang! Ngoài siêu thị đủ loại gạo được gói trong bao bì đẹp đẽ. Một cân gạo loại ngon nhất, dẻo thơm nhất cũng chỉ mấy chục ngàn, ngang giá một bữa trưa bình dân. Cơm dễ mua, dễ nấu, dễ ăn và gần như lúc nào cũng có sẵn trong bếp hay ngoài quán. Nếu hết gạo, còn vô vàn lựa chọn khác: mì, bún, phở, hủ tiếu, bánh mì,... đủ món để đổi vị mỗi ngày. Bởi thế mà cơm dần trở nên hiển nhiên đến mức bình thường. Ngay cả một người dễ ăn như tôi cũng ngán cơm vì sợ nặng bụng, sợ tăng cân.
Nhưng với bà ngoại - người đã trải qua những năm tháng chiến tranh, cơm là lương thực quý giá nhất. Hồi còn ở với bà, tôi được dặn phải biết quý từng hạt gạo. Tôi nghe, nhưng chưa bao giờ thực sự hiểu, cũng như bài thơ Hạt gạo làng ta của bác Trần Đăng Khoa, tôi cũng biết là hay, nhưng là hay… vậy thôi, chứ giờ mình đâu có ai thiếu gạo ăn!
Vài năm sau khi bà mất, tôi lên thành phố, ít khi nghĩ chuyện về nhà. Mãi đến mùa dịch, bị giam trong bốn bức tường, giữa lúc thực phẩm khan hiếm, tôi mới thấm nỗi nhớ cơm nhà. Vừa hết cách ly, về quê, bà đã mất, mẹ làm giỗ không quên món bà thích, mùi cơm nóng vừng rang quen thuộc khiến ký ức ùa về, tôi chợt nhận ra mình đang ăn ngon lành món mà trước kia luôn chối từ. Lần đầu tiên, tôi thấy hạt cơm ấy… ngọt.
Khi cả nước rợp cờ hoa của những ngày ăn mừng Độc Lập, người người hướng về cội nguồn, tôi bùi ngùi nhớ bà, nhớ những bữa cơm trong gian khó bà từng kể, giờ có thể thành truyền thuyết với thế hệ ngại ăn cơm như chúng tôi và câu chuyện về hạt gạo, bữa cơm của người Việt bỗng khiến tôi thấy mình nên biết, nên ghi lại giùm nhiều bạn trẻ khác, cũng như mình.
Cơm nắm muối vừng, và hành trình nhiều vị mặn
Giờ mà nói cơm nắm, chúng tôi sẽ hiểu ngay là nắm cơm tam giác bọc rong biển, kiểu Nhật, trong các cửa hàng tiện lợi, có vừng thơm thơm nhưng nguyên hạt rắc lên. Còn cơm nắm muối vừng “kháng chiến” của bà ngoại tôi thì khác.
Gian nan cơm vắt, muối vừng
Mà nên chiến thắng lẫy lừng Điện Biên...
Bà đọc câu thơ này mỗi khi làm muối vừng, cơm nắm và tôi hay hỏi đâu có gì ngon mà bà thích vậy.
Cơm vắt, là tiếng địa phương của cơm nắm. Bà kể khi còn là đứa trẻ 9-10 tuổi, kháng chiến chống Pháp, cả nước ra trận, không bếp, không mâm, không ghế, những nắm cơm từ hậu phương là nguồn lương thực duy nhất của người lính. Ai không ra trận, thì làm dân công, ai không làm dân công thì góp xe đạp, góp gạo, nấu cơm.

Để nắm cơm được chặt, phải nắm ngay khi cơm còn nóng, vừa chín là xới vào các tấm khăn vải màn ướt, bọc lại, dùng tay nhồi, ép để đẩy hết không khí ra cho hạt cơm nhuyễn với nhau, kết dính, sau đó bọc kín trong mo cau hoặc lá chuối thì mới giữ được 1-2 ngày vẫn ăn được, không hư. Vừng, lạc ăn kèm được rang với chút muối, thiếu vừng, lạc thì giã nhỏ cả gạo rang, “cơm chấm cơm” là vậy.
Chiến tranh khắc nghiệt, dẫu có hy sinh cũng phải đưa lương thực đến tay người ở tiền tuyến. Người ra trận ăn vắt cơm khô, dính bụi đường, mặn không chỉ vì muối, mà cả mồ hôi, nước mắt, thậm chí là cả máu của đồng bào cũng phải cắn răng ăn để tiếp tục chiến đấu. Thế nên ngày ấy, hòa bình, no cơm ấm áo là khát vọng của cả một dân tộc.
Đến những năm 80-90 của thế kỷ 20, cơm nắm muối vừng vẫn là bữa ăn chắc dạ cho nhiều người khi di chuyển xa xôi, hàng quán cũng chưa nhiều. Bà bảo không bữa cơm xa nhà nào mà vừa chắc dạ, gọn gàng mà lành như cơm nắm muối vừng.
Ngày nay, chúng tôi vẫn ăn cơm nắm, nhưng không ai có ký ức về cơm nắm muối vừng từng là lương thực trong chiến tranh và thời bình khó khăn ngày đó như bà tôi. Ngay cơm nắm muối vừng “thuần Việt” cũng trở thành thực đơn của “eat clean”, muôn vàn biến tấu cho ngon, cho đẹp.
Riêng tôi, nhớ buổi chiều ngồi nắm cơm cùng bà - điều mà tôi không bao giờ có lại lần nữa. Mỗi lần nhớ bà, tôi sẽ tự nắm cơm (dù giờ có sẵn cả khuôn), rang vừng với lạc. Ăn để tự nhắc nhở mình phải nỗ lực nhiều hơn vì sự yên bình và đủ đầy đang có hôm nay.
Cơm độn hay cơm trộn, một phần gạo, ba phần khoai!
Thời của ba mẹ tôi, nước nhà đã có độc lập, nhưng độc lập không có nghĩa là toàn dân ấm no ngay lập tức. Hòa bình không đồng nghĩa ai cũng có bữa cơm nóng hổi trong ngày.
Những năm bao cấp, hầu hết mọi mặt hàng đều phải đổi bằng tem phiếu. Đến ngày phát gạo, người nhận phải xếp hàng từ sáng sớm. Nhưng lúc đó là gạo cũ, khô, thậm chí mốc, mọt. Nhận gạo về phải vo thật kỹ trước khi nấu. Không đủ gạo thì độn cơm bằng hạt bo bo. Ở quê, nơi có thể trồng lúa nhưng gạo cũng quý không kém thành thị, người ta độn thêm khoai, sắn (củ mì), ngô (bắp).
Sáng ăn khoai, là vì giữ gạo cho bữa cơm trưa hay chiều muộn mới là bữa chính, không ai nói lái thành “khoái ăn sang”.

Mẹ tôi bảo món cơm độn lúc mới ăn thì lạ miệng, nhưng ăn hoài thành “nỗi sợ”. Ai từng sống qua thời bao cấp chắc chắn không quên được hương vị đó. Thời nay, ít ai biết hạt ý dĩ chính là tên gọi khác của hạt bo bo, từng gây ám ảnh cho thế hệ trước. Bo bo giờ được dùng để nấu món chè hoặc món hầm. Còn cơm trộn ngô/bắp, cơm khoai giờ cũng được bày biện đẹp mắt, kết hợp cùng thịt nướng, salad, hay sốt bơ. Người trẻ gọi đó là “healthy food” - giàu chất xơ, ít tinh bột xấu, có lợi cho sức khỏe.
Bát cơm độn ngày xưa vốn là giải pháp chống đói khi thiếu gạo, nay lại thành một phần của ẩm thực lành mạnh. Và các bạn tôi tập gym, giảm cân, coi khoai lang là superfood Việt, chứ không phải vì nhà không đủ tiền mua gạo ST!
Cơm cháy - từ phần đáy nồi mang tính nhịn nhường đến món ăn vặt hàng top
Cơm cháy xưa vốn không phải là món ăn được cố ý tạo ra. Chẳng qua ngày đó, nấu cơm gạo bếp củi, nổi gang, lớp cháy đáy nồi cũng được tận dụng không bỏ phí.
Hồi còn bé, mẹ tôi từng nghĩ bà ngoại giữ phần cơm cháy đáy nồi ngon nhất nên có lần lén ăn thử. Xong rồi nhăn mặt vì... quá cứng. Lúc này mẹ mới hiểu bà ngoại tiết kiệm, quý từng hạt cơm, nên nhường phần cơm ngon cho cả nhà, còn mình thì lặng lẽ cạo miếng cơm cháy khét dưới đáy nồi. Chỉ miếng cơm cháy cũng đủ dạy mẹ tôi bài học về sự nhường nhịn và sẻ chia. Lớn lên, có gia đình riêng, mẹ cũng dành cho tôi và em phần cơm ngon nhất.
Lớp cơm cháy đáy nồi là biểu tượng của sự hy sinh, nhường nhịn, mang đậm tính cách của người Việt, luôn dành những gì tốt nhất cho người thân, giờ trở thành món ăn vặt phổ biến, thường được gói đẹp mắt, hoặc được phục vụ trong nhà hàng sang trọng với đủ loại topping, mỡ hành, ăn kèm kho quẹt..

Và cơm cháy chà bông ngon giòn được ép, chiên, chủ động, ngon lắm, dễ ăn lắm, nhưng 9x hoặc gen Z khó có được cảm giác cay mắt khi thấy ba mẹ bẻ miếng cháy đáy nồi để nhường cơm dẻo cho mình.
Cơm gắn liền với nếp sống. Trong tiếng Việt, “ăn cơm” đồng nghĩa với “ăn bữa chính”. Hơn cả một bữa ăn, cơm còn là cầu nối với ký ức. Mỗi hạt gạo đều chứa đựng yêu thương.
Nếu mọi sản phẩm giờ đều cần theo xu hướng, thì riêng cơm lại đi theo thói quen và gắn bó nhiều đời của người Việt, của bà, của mẹ, và cả người trẻ chúng tôi.
Nên dù cho có lúc ngại ăn cơm, tôi vẫn yêu hạt gạo cùng những ký ức thương yêu, đặc biệt trong những ngày cận lễ Quốc Khánh, cả nước rộn rã treo cờ, đi đâu cũng thấy rưng rưng khi nhắc đến quê hương, gia đình.
Vì tôi, là một người Việt Nam.