Tôi từng thấy lạ khi cậu Hai cắm điếu thuốc lên lư hương mời ông ngoại, như thể ông vẫn còn ngồi đó, châm lửa, nhả khói bên tách trà trong buổi sớm tinh sương. Tôi cũng thấy lạ khi mẹ dặn không được chạm vào bánh trái trên bàn thờ, dẫu trên đó chỉ toàn là món tôi yêu thích. Hôm giỗ ông, tôi năn nỉ xin hộp bánh, nhưng mẹ chỉ cười bảo: “Để ông ăn xong đã, rồi mới tới lượt con”.
Lúc ấy, với một đứa trẻ như tôi, thờ cúng ông bà chỉ là những điều kỳ lạ, nửa huyễn hoặc, nửa xa xăm. Nhưng rồi càng lớn, tôi mới thấy trong từng nén hương trầm, từng mâm cơm cúng là cả một trời nhớ thương mà con cháu dành cho ông bà tổ tiên, là sợi dây tâm linh kết nối người đã khuất, cũng là sợi dây thân tình giữ họ hàng sum họp.
Giữ một niềm tin thiêng liêng qua những nghi lễ truyền đời
Tôi thường nghe nhiều người gọi đó là “đạo ông bà”, hay “đạo gia tiên”, nhưng đây tuyệt nhiên không phải là tôn giáo, mà là tín ngưỡng - một niềm tin thiêng liêng gắn liền với những nghi lễ truyền đời. Người Việt mình có rất nhiều tín ngưỡng, song phổ biến nhất vẫn là tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ ông bà. Trong số đó, việc thờ cúng ông bà là một trong những tín ngưỡng dân gian mang đậm nét truyền thống và phổ biến của văn hoá Việt.
Năm 1987 với tác phẩm Không có vua, Nguyễn Huy Thiệp đã để nhân vật khấn nguyện vào ngày giỗ bà Nhớn: “Tất cả đều lòng thành, xin chư vị phù hộ độ trì, cho sức khỏe dồi dào, làm ăn tấn tới”. Lời cầu xin không đi vào chi tiết, đơn sơ, mộc mạc, nhưng đó dường như là ước mong muôn đời của muôn người: thành công, mạnh khỏe, bình an.
Từ đó đến nay, lời nguyện cầu ấy vẫn đều đều được mỗi người lẩm nhẩm mỗi lúc đứng trước bàn thờ tổ tiên, thánh thần. Có lẽ với người Việt, cầu nguyện, thờ cúng có mối liên hệ sâu sắc với mọi vấn đề của cuộc sống. Bất kể làm gì, họ cũng cầu mong ông bà phù hộ độ trì: lấy vợ, làm nhà, tậu trâu, thi cử, đi xa; nhà có người ốm đau, hay cả những lúc mãn nguyện. Trước mỗi quyết định, mỗi chuyến đi, việc đầu tiên có lẽ vẫn luôn là chắp tay khẩn nguyện trước bàn thờ gia tiên, thắp một nén nhang, vái 3 vái để xin ông bà “coi ngó”.
Ở Việt Nam, đối tượng của thờ cúng tổ tiên được thể hiện ở 3 cấp độ khác nhau: gia đình, dòng họ, quốc gia - dân tộc. Vậy nên, ngoài gian thờ ông bà gần gũi, thân thương, bạn chỉ cần ra đường, đi độ vài trăm mét sẽ thấy một đình, miếu. Để nói về tầm quốc gia, tôi tin bất kỳ ai cũng đều thuộc răm rắp vài câu dân ca khi tiết tháng ba chạm ngõ:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.
Chỉ có ở Việt Nam, bạn mới bắt gặp tục thờ Vua Tổ. Tiến sĩ Tạ Ngọc Tấn - Nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương cho rằng: “Trên thế giới có nhiều tộc người, quốc gia thờ cúng tổ tiên ở các mức độ và dạng thức. Tuy nhiên, thờ cúng Hùng Vương dưới dạng thờ Quốc Tổ chỉ có ở Việt Nam - điều này càng cho thấy tính đặc thù của tục thờ cúng tổ tiên ở người Việt”. Để rồi, nhắc đến ngày giỗ Tổ, người ta không chỉ vui vì đó là một ngày nghỉ làm được hưởng nguyên lương (theo Bộ luật Lao động 2019), mà còn tự hào nhớ lại mình cũng là con cháu vua Hùng, con Rồng cháu Tiên, là đứa con trong chiếc bọc trăm trứng.

Ngày giỗ cũng là ngày đoàn viên
Tôi để ý, người Việt vốn rất nghiêm cẩn trong chuyện thờ cúng. Họ sẵn sàng đón xe về quê, đặt chuyến bay từ Nam ra Bắc vì không muốn vắng mặt trong ngày giỗ, nhất là ngày giỗ đầu. Dường như mọi công việc bận bịu đều được gác lại để những đứa con xa nhà quay về ăn giỗ ông bà, tổ tiên.
Cứ đến ngày giỗ, ngôi nhà tự quê ngoại tôi lại rộn ràng hẳn lên. Từ sáng sớm, mùi khói nhang đã lan tỏa, quyện vào mùi thịt kho, mùi xôi mới nấu, ai đi ngang cũng biết trong nhà có giỗ. Mấy bác, mấy cô từ xa về, tay xách nách mang, vừa bước vào đã ríu rít tiếng chào hỏi. Trẻ con chạy lon ton ngoài sân, còn người lớn vừa nấu nướng vừa kể lại chuyện ngày xưa, thỉnh thoảng bật cười vang cả gian bếp. Chỉ riêng điều này cũng đủ để thấy tục thờ cúng của người Việt rất riêng, rất khác so với các nước phương Tây, bởi họ chỉ đơn giản mang hoa đến nghĩa trang, đặt lên mộ, chứ không bao giờ tổ chức tiệc tùng, cúng kiếng.
Sau phần lễ, bao giờ cũng là phần hội. Cả nhà thắp hương, dâng lễ đủ cả. Xong xuôi tất thảy, sẽ là dịp các bác trong nhà quây quần bên bàn hạt dưa, hỏi thăm đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Tôi vẫn nghĩ rằng, ý nghĩa đoàn viên ngày giỗ cũng tựa như ngày tết, mà nếu không có tục thờ cúng ông bà tổ tiên, có lẽ những đứa con xa nhà như tôi - những người trẻ cả năm chỉ biết quẩn quanh nơi phố thị, sẽ chẳng rõ được bà chị bên họ ngoại lại là giáo viên gác thi năm mình mười tám tuổi.
Cũng vì lẽ đó, mà ngày giỗ với tôi không chỉ để tưởng nhớ người đã mất, mà còn để người đang sống nhớ rằng mình vẫn có nhau. Mà nếu không có lễ giỗ, con người có lẽ sẽ rất cô đơn, vì chẳng có cảm giác thuộc về. Bà tôi vẫn thường bảo, chỉ nhìn lên bàn thờ cũng đủ để biết được nề nếp của cả gia đình. Bàn thờ nhang khói, hoa trái ấm cúng nghĩa là con cháu còn giữ lễ nghĩa với ông bà. Ngược lại, bàn thờ lạnh lẽo, bụi phủ, hương tàn thì gốc rễ cũng đã phần nào mai một.
Tục thờ cúng ông bà trong suy nghĩ của gen Z
Không chỉ hiện diện trong đời sống theo một cách truyền thống như lễ giỗ, “đạo ông bà” trong đời sống tâm linh của gen Z cũng rất... sống động.
Có thể gen Z không rõ cách bài trí bàn thờ gia tiên, cũng chẳng thuộc hết những câu khấn cổ truyền, nhưng đời sống tâm linh của thế hệ gen Z lại phong phú theo một cách rất riêng: vừa đáng yêu, vừa hóm hỉnh. Bởi mỗi lúc “hoàn hồn” sau những chuyện giật gân, tôi vẫn nghe họ phát ra âm thanh như được lập trình sẵn: “ông bà gánh còng lưng”. Hoá ra, người nào cũng vậy, dù trẻ dù già, chỉ cần là người Việt thì đều tin răm rắp vào chuyện ông bà phù hộ, độ trì cho con cháu.

Tôi từng thấy rất nhiều bạn trẻ quỳ lạy, chắp tay, đốt nhang khẩn nguyện ông bà phù hộ độ trì trước…tượng đá khắc tên trường, vốn đã được phong chức “thần đá”. Họ cho rằng chỉ cần niềm tin đủ lớn, thì dù ôn bài chưa kỹ, họ vẫn được ông bà, làng xã, thần đá, thần muỗng, thần xoài,... sẵn lòng chia tay giúp đỡ cho qua môn.
Họ cũng coi trọng giá trị tinh thần hơn hình thức khi thực hiện các nghi thức, nghi lễ theo phương châm: “thần cũng giống mình, mình ăn cái gì, mình cúng thần cái nấy”. Vậy nên mới có những câu chuyện dở khóc dở cười vì người trẻ cúng ông Địa trà sữa trân châu, gà rán hoặc xôi mặn thay cho rượu nếp, gà luộc và xôi trắng.

Thờ cúng ông bà: Điểm chung linh thiêng giữa muôn tôn giáo ở Việt Nam
Dẫu Việt Nam có 16 tôn giáo với hơn 28 triệu tín đồ, có lẽ, thờ kính ông bà tổ tiên vẫn là điểm gặp gỡ thiêng liêng của mọi niềm tin trên đất Việt.
Vì là một người theo đạo Công giáo, tôi thường được bạn bè tò mò hỏi thăm nhà tôi có thờ ông bà không, vì họ nghe nhiều về việc người Công giáo chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa. Nhưng thật ra, đạo Công giáo không cấm chúng tôi thờ kính ông bà, ngược lại, giáo lý còn răn dạy các tín đồ sống thảo hiếu với ông bà, cha mẹ, tổ tiên - khi họ còn sống phải biết vâng lời, khi họ mất đi phải biết đọc kinh cầu nguyện, lo ma chay đầy đủ.

Nếu đạo Phật có ngày lễ Vu Lan báo hiếu, đạo Công giáo cũng có ngày lễ mùng 2 Tết Nguyên Đán để kính nhớ ông bà tổ tiên; và nếu tháng 7 âm lịch hằng năm là tháng mà các Phật tử đi lễ chùa để cầu an cho người sống, cầu siêu cho người đã khuất, thì tháng 11 dương lịch, người Công giáo cũng tổ chức lễ các đẳng linh hồn, cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.

Bởi có sự giao thoa giữa tôn giáo và tín ngưỡng, là vì trong nhận thức của người Việt, “chết” chưa phải là hết, mà “chết” là khởi nguyên của một cuộc sống mới, ở cõi mới - cõi âm. Vậy nên, người Việt tin rằng dù đã mất đi, nhưng linh hồn của ông bà vẫn trú ngụ trên bàn thờ, dõi theo các thế hệ con cháu, phù hộ độ trì cho cháu con được bình an và thành đạt trong cuộc sống, cũng như quở trách cháu con khi làm những công việc trái với nề nếp gia phong.
Đây cũng là cơ sở nhận thức chủ yếu hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Và nếu “chết chưa phải là hết”, thì tưởng nhớ cũng chưa bao giờ là xong. Còn thắp hương, còn lễ giỗ, còn tiếng gọi về cội nguồn, thì lòng người Việt vẫn còn một chỗ để neo lại, để biết rằng: ta không bao giờ cô đơn trên hành trình làm người.