Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh: Vốn quý nhất của đất nước là con người Việt Nam | Vietcetera
Billboard banner
Vietcetera

Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh: Vốn quý nhất của đất nước là con người Việt Nam

Chính sự gắn bó với quê hương, ở mức độ đậm nhạt khác nhau sẽ giúp người trẻ Việt Nam bước ra toàn cầu một cách tự tin và bền vững.

Hải My
Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh: Vốn quý nhất của đất nước là con người Việt Nam

Nguồn: Minh Đăng cho Vietcetera

Từng là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Liên minh châu Âu, Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển TP.HCM, bà Tôn Nữ Thị Ninh là gương mặt quen thuộc với công chúng trong nhiều thập kỷ qua.

Ở tuổi ngoài 70, nhà ngoại giao vẫn miệt mài chia sẻ, đối thoại và truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ. Cuốn sách của bà, “Tư duy và chia sẻ”, ra mắt từ 2015 và chuẩn bị được tái bản, chính là kết tinh của hành trình đó: một đời sống suy tư, trải nghiệm và phản biện, luôn hướng tới việc đặt Việt Nam trong dòng chảy toàn cầu.

Là một nhà ngoại giao tham gia mặt trận đối ngoại nhiều năm, cô đã từng run bao giờ chưa? Khi đó cô đã “xử lý” cảm giác này ra sao?

Tôi có run chứ, nhưng không run ra bên ngoài, cũng chẳng bao giờ run vì sợ hãi. Với tôi, run chỉ đáng nếu nó gắn với một mục tiêu lớn, một việc đủ quan trọng để mình phải dồn hết sức. Còn nếu run vì không tự tin, không chuẩn bị kỹ, thì đó lại là biểu hiện của sự hời hợt.

Thật ra, run cho mình cơ hội để cân nhắc và suy ngẫm về bối cảnh, thách thức, mục tiêu, để rồi mình sẽ biết cách xử lý cảm giác này: biến nó thành động lực, hoặc ít nhất, cũng không để nó cản trở mình. Vì nếu không thắng, mình cũng cần giảm thiểu mức độ thua.

Câu chuyện thắng - thua thật ra cũng chỉ mang tính chất tương đối, bởi cuộc đời vốn phức tạp, hỗn hợp. Trong ngoại giao cũng chẳng có “absolute victory” (chiến thắng tuyệt đối) mà chỉ có “relative victory” (chiến thắng tương đối). Vì vậy, tư duy “thắng - thua tương đối” giúp tôi giữ thăng bằng, không ngạo nghễ khi thành công, cũng không suy sụp khi thất bại.

Khi chuyển từ đối thoại trực tiếp sang trang viết, cô có thấy mình trở thành một “phiên bản khác” trong cách suy nghĩ và biểu đạt không?

Không. Tôi không phải là nhà văn, vậy nên, nếu cố thêm có lẽ cũng chẳng thêm hấp dẫn. Tôi nghĩ sở trường của mình là truyền thông. Dù nói hay viết, mục tiêu cuối cùng vẫn là làm cho thông điệp của mình rõ ràng, hấp dẫn và có sức thuyết phục.

alt
Cô Tôn Nữ Thị Ninh, Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển TP.HCM. | Nguồn: Minh Đăng cho Vietcetera

Trong ngoại giao, mỗi người có một trụ cột chuyên môn: người giỏi đàm phán, người chuyên hoạch định chính sách. Riêng tôi, thế mạnh rõ nhất lại là “ngoại giao công chúng”, đàm phán với sức mạnh mềm (smart power và soft power). Nhờ vậy, tôi có thể tham gia đủ cả bốn kênh đối ngoại: Đảng, kênh Chính phủ nhà nước, Bộ Ngoại giao, kênh Quốc hội.

Sau khi nghỉ hưu, tôi tham gia đối ngoại nhân dân (public diplomacy), vì tôi tin Việt Nam rất cần điều này. Chúng ta đôi khi làm được nhiều, nhưng lại kể quá ít, hoặc chậm trễ, vụng về, dẫn đến lỡ cơ hội. Tôi muốn lấp vào khoảng trống đó bằng cách viết các chuyên đề, chia sẻ kinh nghiệm, và quan trọng hơn là bồi dưỡng lớp trẻ trở thành những người có tiếng nói đại diện cho Việt Nam.

Trong diễn đàn “Việt Nam: Thời khắc Việt”, cô từng nhắc đến áp lực hội nhập của những bạn trẻ, vừa phải hội nhập với tốc độ toàn cầu, vừa phải đối diện với phản xạ tự vệ dân tộc. Vậy theo cô, mâu thuẫn này sẽ được giải quyết ra sao khi rõ ràng đây vừa là áp lực, vừa là cơ hội?

Điều đầu tiên tôi muốn nhấn mạnh: hội nhập không có nghĩa là đánh mất bản sắc. Toàn cầu hóa cho mỗi người cơ hội, nhưng để đi xa, trước hết phải biết mình thuộc về nơi nào. Với người trẻ, thế đứng vững chãi nhất chính là quê hương, dân tộc. Có gốc rễ rồi mới có thể tự tin hòa nhập.

Tôi nhìn thấy rõ ngay cả những quốc gia phát triển, từng rất cởi mở như Thuỵ Điển, Phần Lan hay Hoa Kỳ, cũng đang xuất hiện các phong trào dân túy, xu hướng tự vệ dân tộc trước làn sóng toàn cầu hóa, di cư, va chạm văn minh và tôn giáo. Nói cách khác, bảo vệ bản sắc không phải chuyện riêng của Việt Nam, mà là phản xạ chung của mọi quốc gia trong thời kỳ hội nhập sâu rộng.

Điều may mắn của Việt Nam là chúng ta có tinh thần dân tộc mạnh mẽ nhưng không cực đoan. Bao nhiêu cuộc chiến tranh đã đi qua, nhưng dân tộc ta không rơi vào cái bẫy của sự hằn học, khép kín hay bài ngoại. Ngược lại, chúng ta có khả năng “xoay chuyển cục diện”: từ kẻ thù thành đối tác, một câu chuyện dường như “độc nhất vô nhị” trên thế giới. Tôi cho rằng đây là một lợi thế rất lớn: vừa giữ được sức mạnh dân tộc, vừa mở ra tinh thần hòa hiếu, bao dung để hội nhập.

Đối với thế hệ trẻ, điều này đặc biệt quan trọng. Các bạn cần trả lời được câu hỏi “Tôi là ai?” trước khi hỏi “Tôi đi đến đâu?”. Bởi bạn có thể mang nhiều quốc tịch, nói nhiều thứ tiếng, sống ở nhiều quốc gia, nhưng “quê hương” thì mỗi người chỉ một. Nó vừa là cội nguồn tình cảm, vừa là nền tảng để hội nhập hiệu quả. Tôi vẫn tin rằng, chính sự gắn bó với quê hương, ở mức độ đậm nhạt khác nhau sẽ giúp người trẻ Việt Nam bước ra toàn cầu một cách tự tin và bền vững.

Nói cách khác, mâu thuẫn giữa hội nhập và bản sắc không phải để giải quyết theo kiểu “chọn một bỏ một”, mà là để dung hòa. Quê hương, dân tộc cho ta gốc rễ. Toàn cầu hóa cho ta đôi cánh. Khi hai yếu tố ấy cùng hiện hữu, người trẻ sẽ bay xa một cách đầy chắc chắn và vững chãi.

Theo cô, đâu là điều “tối kỵ” mà các bạn trẻ Việt ngày nay không nên mang theo khi bước ra thế giới?

Điều tối kỵ nhất là mặc cảm mình là người Việt Nam. Tôi nhớ có lần, một bạn trẻ nói với tôi rằng, bạn ấy thấy người Việt để thừa thức ăn trong tiệc buffet vì lấy quá nhiều. Bạn ấy xấu hổ quá nên giả vờ nói mình là người Thái. Tôi trả lời ngay: tác phong đó đáng phê bình, nhưng giải pháp không bao giờ là chối bỏ quốc tịch hay quê hương. Nếu mình thấy dở thì phải nỗ lực để giỏi lên, đừng trốn tránh.

alt
Cô cho rằng điều tối kỵ nhất khi bước ra thế giới là mặc cảm mình là người Việt Nam. | Nguồn: Minh Đăng cho Vietcetera

Cái dễ thấy ở một số bạn trẻ bây giờ là tâm lý “ra ngoài coi thường trong nước”. Thấy đồng bào ứng xử chưa chuẩn thì quay sang xấu hổ, thậm chí chối bỏ nguồn gốc. Tôi thường hỏi ngược lại: Các bạn có quan sát du khách phương Tây không? Chính họ cũng có những hành vi thiếu lịch sự khi đến một đất nước xa lạ, vì họ mặc nhiên cho rằng cách sống của mình là chuẩn mực. Cho nên, vấn đề không phải là “mình có đủ lịch sự chưa”, mà là mối quan hệ hai chiều: mình học họ, và họ cũng phải học từ mình.

Chính vì vậy, tôi nghĩ thanh thiếu niên Việt Nam cần được học môn giao lưu văn hóa, không phải là nghi thức ngoại giao chuyên nghiệp, mà là văn hóa ứng xử trong đời sống hằng ngày. Khi gặp người nước ngoài, nên biết họ thường nghĩ gì về người Việt, cái hay, cái dở ra sao, và mình có thể chủ động giải thích, giới thiệu. Như lần tôi được mời giảng cho sinh viên Mỹ, tôi chọn chủ đề thờ cúng ông bà. Tôi giải thích rằng đây không phải tôn giáo, mà là một phong tục giúp con cháu kết nối với gia đình, dòng họ, giữ được ý thức “belonging” - cảm giác mình thuộc về một cộng đồng. Điều này rất Á Đông, rất Việt Nam, và chính là sức mạnh để ta đi vào hiện đại mà không mất gốc.

Cô từng chia sẻ “cảm giác thuộc về” của cô luôn gắn với Việt Nam. Nhưng khi còn nhỏ sống ở Pháp, cô có từng nghĩ rằng cả sự nghiệp của mình sau này sẽ gắn chặt với thương hiệu quốc gia?

Không. Tôi chưa từng hình dung rõ con đường sự nghiệp, đúng là… vừa đi vừa xếp hàng. Tôi sống lâu ở phương Tây, tiếng Pháp ban đầu như tiếng mẹ đẻ, còn tiếng Việt thì bập bẹ. Nhưng sâu trong lòng, tôi chưa bao giờ thấy mình là người Pháp.

Nếu tôi chọn ở lại Pháp, cuộc sống chắc chắn sẽ đầy đủ và tiện nghi. Nhưng đó sẽ là một cuộc sống êm đềm mà nhạt nhòa, vì tôi biết mình sẽ mất gốc rễ. Ra thế giới mà mất gốc rễ thì cái giá phải trả là quá cao. Trái lại, khi tôi chọn cắm rễ ở Việt Nam, nuôi dưỡng cái cây ở đất nước mình, tôi vẫn có thể vươn ra thế giới. Bởi thế giới ngày nay đâu còn xa xôi nữa, nó hiện diện ngay trong Việt Nam từng ngày.

Nhìn về chặng đường sắp tới, đặc biệt trong bối cảnh “thời khắc Việt” và “thương hiệu quốc gia” đang được nhắc đến nhiều, cô kỳ vọng điều gì ở người Việt?

Điều tôi mong muốn nhất là người Việt phải đồng thuận về nhận thức với nhau khi nhắc đến thương hiệu quốc gia. Bởi nếu chính người Việt không tự tin và tự hào, thì sẽ không cách nào quảng bá nó đến bạn bè quốc tế. Từ 2010, tôi đã bắt đầu nói đến Nation Brand Vietnam. Mười lăm năm trôi qua, tôi vẫn tin đây là một hành trình cần thiết, bởi thương hiệu quốc gia không giống thương hiệu thương mại. Nó không chỉ là vài sản phẩm hay chiến dịch truyền thông, mà là câu chuyện xuyên suốt về đất nước và con người.

alt
Host Thuỳ Minh và cô Tôn Nữ Thị Ninh tại Have A Sip. | Nguồn: Minh Đăng cho Vietcetera

Với Việt Nam, vốn quý nhất chính là con người Việt. Nhưng không phải chỉ là con người hôm nay, mà là con người đã được tôi luyện qua nhiều thế kỷ, qua chiến tranh, gian khó, để trở nên kiên định, lạc quan và cởi mở như bây giờ. Nếu chỉ nhìn vào tỉ lệ tăng trưởng kinh tế hiện tại, nước mình không khác gì nhiều nước khác cũng đang phát triển nhanh. Nhưng nếu đặt thành quả hôm nay trong mạch thời gian - từ tro tàn chiến tranh, từ 20 năm cấm vận, thì câu chuyện Việt Nam mới thật sự đặc biệt và đáng tự hào. Câu chuyện thương hiệu Việt Nam chỉ có ý nghĩa khi được đặt đúng trong bối cảnh lịch sử đó.

Bên cạnh kinh tế, có một giá trị khác cần được soi sáng: thiên hướng hòa hiếu và năng lực kiến tạo hòa bình của người Việt. Việt Nam có được hòa bình bằng chiến thắng, còn có những dân tộc khác chỉ có hòa bình bằng chiến bại. Chúng ta biết hy sinh để giành lấy hòa bình, và khi đã có, lại biết nâng niu, xây dựng nó. Đây chính là “singularity” (tạm dịch: sự phi thường) - điểm độc đáo mà Việt Nam có thể đóng góp cho thế giới.

Vậy nên, nếu nói về hy vọng, tôi hy vọng người Việt sẽ hiểu rõ chính mình hơn, đồng thuận với nhau hơn, và kể câu chuyện về Việt Nam một cách nhất quán, hấp dẫn, đặt trong đúng mạch thời gian và bản sắc. Khi đó, thương hiệu quốc gia không phải là khẩu hiệu, mà là sức mạnh thật sự để Việt Nam bước ra thế giới.