Bản Tuyên ngôn thay đổi bản đồ thế giới
80 năm trước, vào buổi sáng đầu thu, ngày 2/9/1945, tại Vườn Hoa Ba Đình lịch sử, hàng chục vạn người đã nín thở lắng nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, Nhà nước Dân chủ Nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á.
“Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Mở đầu bản Tuyên ngôn, Hồ Chủ tịch trích dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền của Mỹ và Pháp về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, để rồi mạnh mẽ tuyên bố: dân tộc Việt Nam cũng có quyền ấy và đã trả bằng máu xương để giành lấy Độc lập.
Lần đầu tiên trong lịch sử, vị lãnh tụ yêu nước đứng đầu cuộc đấu tranh giành Độc Lập đã bằng những lời thấm thía, không chỉ nói với đồng bào, trong biên giới đất nước mình, mà còn đối thoại trực diện, tuyên bố với cộng đồng quốc tế: Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, có lãnh thổ. Bản đồ thế giới cần được vẽ lại.
Tuyên bố chủ quyền đầy tự hào, là điểm chính tạo nên Tuyên ngôn Độc lập. Với Việt Nam, không chỉ đánh dấu một kỷ nguyên mới, bản Tuyên ngôn của Hồ Chủ tịch còn nối tiếp mạch ngầm thiêng liêng chảy suốt ngàn năm của tinh thần yêu nước, luôn rực sáng trong những trận chiến hào hùng bảo vệ từng tấc đất. Trong mạch ngầm ấy, không thể không nhắc đến bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Thái Uý Lý Thường Kiệt, nhà quân sự và chính trị kiệt xuất thế kỷ thứ XI:
Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
“Sông núi nước Nam vua Nam ở”, bài thơ mở đầu bằng lời khẳng định mạnh mẽ chủ quyền nước Việt tại “sách trời” của bậc trung thần. Nam Quốc Sơn Hà đồng thời là “liều thuốc tinh thần” tiếp lửa cho quân dân Đại Việt khi ấy, giúp họ vững tin vào chính nghĩa và chiến thắng. Trung với vua, là trung với nước, tư tưởng Nho Giáo vốn là cốt lõi tinh thần của thời kỳ ấy đã được Lý Thường Kiệt thể hiện vô cùng ngắn gọn, giản dị, nhưng trang trọng. Ông chính là người đặt nền móng cho tư tưởng “chủ động trong chiến tranh”, quyết liệt giữ từng tấc đất, không nhân nhượng trước bất kỳ kẻ thù xâm lược nào. Tinh thần ấy của Nam Quốc Sơn Hà đã khiến sử sách ghi nhận đây là Bản Tuyên ngôn đầu tiên của nước ta.
Ba trăm năm sau, vào thế kỷ thứ XV, sau khi quét sạch quân Minh, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo, một lần nữa khẳng định chủ quyền, độc lập. Lời mở đầu Bình Ngô đại cáo lại không hào hùng mạnh mẽ như Nam Quốc Sơn Hà, mà đầy kiêu hãnh và nhân văn:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Hai mươi năm chịu ách đô hộ, khi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, nước Việt vẫn “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.
Ở đây, Nguyễn Trãi, (vốn là người đậu Thái Học Sinh, tương đương Tiến sĩ bây giờ), nhấn mạnh chủ quyền đất nước không chỉ là biên cương, mà còn là nền văn hiến, phong tục, lịch sử... Nước ta và nước họ, “tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”, hoàn toàn ngang hàng về vị thế, nhưng khác họ ở triết lý sống, mục tiêu động binh. Chúng ta dùng sức mạnh quân sự như “sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay” để giành độc lập, để nhân dân hưởng thái bình, chứ không phải để mưu cầu bá chủ, vì “muôn thuở nền thái bình vững chắc” là khát vọng ngàn đời của nước Việt.
Áng thiên cổ hùng văn có nội dung xuất sắc lẫn bút pháp tài ba này của Nguyễn Trãi đã trở thành một kiệt tác văn chương, được xem là Bản Tuyên ngôn Độc lập thứ hai của Việt Nam.
Ba bản Tuyên ngôn trong một ngàn năm dựng nước và giữ nước với những lời mở đầu khác nhau, Lý Thường Kiệt khẳng định lãnh thổ, Nguyễn Trãi khẳng định văn hóa và bản sắc, tính nhân văn, tinh thần thương dân, yêu nước, còn Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp nối mạch nguồn ấy nhưng khẳng định quyền tự do, bình đẳng của mọi người dân.

Nhưng sau các đoạn mở đầu, toàn văn, rõ rệt và xuyên suốt của cả ba bản Tuyên ngôn Độc Lập là tinh thần yêu nước bất diệt, khát khao độc lập, tự do của hàng triệu người Việt, được những lãnh tụ của chính họ viết thay. Ngày nay, khi đất nước đã thống nhất, tinh thần độc lập ấy vẫn cần được gìn giữ trong từng bước đi hội nhập. Lời thề với Người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong buổi sáng mùa thu lịch sử : "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập” vẫn đang được đồng thanh nhắc lại bằng nhiều cách khác nhau.
Ba bản Tuyên ngôn Độc lập, ba áng văn thơ bất hủ, nhắc muôn đời sau ghi nhớ: Việt Nam là một dân tộc “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa” (thơ Huy Cận), vừa tài hoa, vừa thiện chiến, sẵn sàng chiến đấu vì độc lập, tự do. Yêu hoà bình, không bao giờ chủ động gây hấn nhưng một khi bị đẩy vào thế phải tự bảo vệ mình, Việt Nam luôn đứng lên và luôn chiến thắng, mỗi người dân, thời chiến hay thời bình đều là hiện thân của sức mạnh quốc gia.
Thế hệ trẻ hôm nay, với trí tuệ, khát vọng và bản lĩnh, được Hồ Chủ tịch trao niềm tin sẽ đưa dân tộc Việt Nam sánh vai cường quốc năm châu, là những người đang đọc ba phiên bản Tuyên ngôn của một Việt Nam tự tin, sáng tạo và kiêu hãnh trên bản đồ thế giới.

Trong mỗi người Việt, tinh thần rực rỡ ấy đã luôn ở sẵn trong tim.
Trân trọng cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Thành Long, Giảng viên chính khoa Lịch Sử Đảng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã đồng hành, cố vấn chuyên môn cho loạt bài trong chuyên đề tháng Thương Hiệu Quốc Gia của Vietcetera.