Có những khoảnh khắc rất nhỏ, nhưng khiến ta bất giác thấy rõ: “À, mình đúng là người Việt rồi”. Với tôi, có khi đó là tiếng nhạc quốc ca vang lên từ loa phường. Có khi là mâm cơm Tết trong khói nhang trầm. Có khi chỉ là lúc thấy thùng trà đá miễn phí ngoài đường, ly sạch sẽ và nước trong veo. Tôi vẫn thường tự hỏi: liệu người Việt có nhận ra khoảnh khắc đó không, hay cứ để trôi vì quen rồi nên chẳng còn để ý?
Tò mò, tôi đem thắc mắc này dò hỏi bạn bè và ngạc nhiên nhận ra, ai cũng có một “khoảnh khắc Việt Nam” của riêng mình. Một điều bình thường thôi, giản dị thôi, nhưng nhắc rõ: mình là người Việt, không lẫn đi đâu được.
Angela Ho: Việt Nam hiện hữu trong vườn rau của mẹ
Việt kiều Úc đang làm việc tại Việt Nam
Hơn 23 năm sống ở Úc, thật ra có đôi lúc, mình cảm giác mình là người Úc nhiều hơn người Việt.

Mặc dù từ bé đến lớn, năm nào bố mẹ cũng cố gắng gói trọn tết Việt trong mâm cơm gia đình với thịt kho hột vịt và dưa món để mình giữ vị quê nhà. Nhưng với mình, tết chỉ khác ngày nghỉ lễ ở mỗi chuyện “đông hơn”. Vì ở Úc, mình sẽ có một buổi “friend mix”, nghĩa là nhiều gia đình Việt, Trung thường quây quần tổ chức Tết cùng nhau. Nhưng chính vào những ngày đón Tết cùng nhau đó, mình bỗng ngẩn ra khi thấy họ trộn tung, xới tung đĩa rau để cầu tài lộc. Bởi vì trong gia đình mình, rau không bao giờ được ăn kiểu đó.
Người Việt có cách ăn rau rất riêng: rau muối đủ kiểu, ngâm mắm làm gỏi, ăn sống hoặc dùng để nêm nếm đồ ăn. Mỗi món một hương vị, một cách kết hợp. Ở Úc, rau nêm, rau sống không hề rẻ. Nên nhà có mảnh sân nhỏ, mẹ mình tận dụng trồng đầy rau để khi cần ăn thì chỉ việc ra hái. Hồi đó mình không nghĩ gì nhiều, cho đến khi nhận ra những cộng đồng có văn hóa tương đồng vẫn không ăn rau như người Việt.

Đến khi mình đi học ở Hàn Quốc, sự khác biệt càng rõ hơn. Cả năm đó, rau trong mỗi bữa ăn của mình chỉ có mỗi vị muối kim chi. Thế là thay vì thèm phở hay burger, mình lại thèm… rau sống. Xà lách, tía tô, diếp cá – những hương vị tưởng chừng bình thường, nhưng khó mà tìm được ở đâu khác ngoài Việt Nam và vườn rau nhỏ của mẹ.
Giờ đây khi đến Việt Nam thực tập theo chương trình học bổng, câu chuyện rau sống đã không còn là vấn đề nữa. Nhưng từ cái ‘khoảnh khắc rau’ nhỏ bé đó, mình chợt hiểu bản sắc của một dân tộc đôi khi nằm trong những điều tưởng chừng rất cơ bản, rất giản dị, nhưng độc đáo đến mức không thể nhầm lẫn. Như chiếc áo dài: xẻ tà dài tận thắt lưng, đi cùng quần dài, tạo nên một dáng dấp hoàn toàn khác với sườn xám Trung Quốc.

Có lẽ đó cũng là lý do mình chọn học tiếng Việt khi về nước. Ngoài để giao tiếp, một phần rất lớn vì để được gần gũi nhiều hơn với mẹ – người đã gieo vào mình tình yêu từ những luống rau xanh trong sân nhà, để mình biết mình không chỉ là “người Úc” mà còn rất Việt.
Hồng Quang: Có quá nhiều khoảnh khắc đồng bào thương nhau
Thực tập sinh tại một công ty truyền thông
Mấy lúc thấy người Việt mình đoàn kết, mình tự hào vì mình là người Việt.

Đợt diễu binh, diễu hành mừng lễ 30/4 vừa rồi, thú thật là mình đi vì…ham vui, vì FOMO nhiều hơn là sự háo hức nghiêm trang. Trên mạng xã hội ai cũng khoe ảnh, ngoài đường thì rợp cờ phướn. Mình với đám bạn nghĩ: ‘Không đi thì tiếc lắm’, thế là liều chen chân giữa đám đông, chấp nhận cảnh oi bức và ngủ bụi cả đêm để giữ chỗ.
Mệt và bất tiện là những điều chắc chắn ai cũng sẽ cảm thấy nếu từng đứng trong đám đông chờ đoàn diễu binh. Chỉ riêng chuyện đi vệ sinh thôi cũng mất cả tiếng đồng hồ, vậy mà khi quay lại, chỗ mình ngồi từ chiều vẫn còn nguyên, chai nước bỏ lại vẫn nằm yên. Không ai tranh, không ai lấy. Giữa cái đám đông tưởng như hỗn loạn ấy, lại có một trật tự ngầm, một sự tôn trọng lạ kỳ. Thế là từ lúc đó, mình không chỉ chờ nhìn đoàn diễu binh mà còn nhìn sang những điều khác như…
Ai khát thì được chuyền nước, ai chưa có cờ thì người bên cạnh dúi ngay cho lá cờ nhỏ. Điện thoại ai hết pin, thiếu dây sạc chỉ cần hỏi, là cả hàng người chuyền nhau giúp đỡ. Không có chuyện quen hay lạ. Chỉ cần ở đó, trong khoảnh khắc ấy, thì tất cả đều coi nhau như người thân vậy.
Từ trải nghiệm nhỏ đó, mình nhận ra một điều: người Việt có cách yêu thương nhau rất đặc biệt. Không cần thân quen, cũng chẳng cần hứa hẹn. Cái tinh thần ‘trước lạ sau quen’, ‘nhường cơm sẻ áo’ gần như là phản xạ.
Như khi đi xe ngoài đường được người lạ nhắc gạt chân chống; khi ở sân trường có bạn sinh viên sẵn sàng dẫn tân sinh viên đi một vòng để khỏi lạc; khi hàng xóm thấy nhà bên cạnh dắt xe khó thì chạy ra phụ một tay. Toàn những điều rất nhỏ, nhưng gắn kết lại thành một cảm giác rất Việt Nam.
Khi gặp việc lớn, tinh thần ấy càng rõ. Bất kể miền nào gặp bão lũ, thiên tai, mình vẫn nhớ người thì chỉ cách mọi người dọn dẹp nhà khi nước rút; người gửi những gói bánh chưng thay vì chỉ mì gói; người nào cũng sẵn sàng quyên góp hỗ trợ. Không khí sốt sắng, hối hả như ai cũng lo cho nhau. Mới tháng trước thôi, Chính phủ kêu gọi quyên góp hỗ trợ nhân dân Cuba, chỉ ba ngày chúng ta đã gom được 250 tỷ đồng.
Ngẫm lại, có lẽ chính trong những lúc khó khăn hay trong những đám đông tưởng như hỗn loạn, tinh thần đoàn kết Việt Nam mới hiện ra rõ nhất. Dường như dù ở tình huống nào, người Việt vẫn luôn chọn cách ở bên nhau. Việt Nam cho mình thấy quá nhiều khoảnh khắc đồng bào thương nhau, khiến mình hạnh phúc khi là một người Việt Nam.
Đăng Khoa: Mình không còn là Đăng Khoa khi đi ra quốc tế
Ủy viên Ban Chấp hành Hội Sinh viên Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh

Có thể nói, tình yêu quê hương, đất nước trong mình đã được nuôi dưỡng từ rất sớm, vì mình lớn lên từ Đội, rồi Đoàn - Hội, và được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng vào năm 18 tuổi.
Nhưng không phải vì thế mà mình không có những lúc ồ ra vỡ lẽ mình “rất là Việt Nam” đâu. Như năm 15 tuổi, mình và 4 người bạn ở ba miền đất nước được tham gia Chương trình giao lưu thanh thiếu niên quốc tế tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Trong không gian đa văn hóa, nơi hội tụ các đoàn đại biểu đến từ nhiều quốc gia, mình được mọi người gọi tên là “đoàn Việt Nam”, chứ không phải là Đăng Khoa như bạn bè vẫn thường gọi.
Nếu như khi còn là “Đăng Khoa” – một học sinh 15 tuổi, mình cũng chỉ là một cá nhân bình thường như bao bạn bè khác, thì lần đầu tiên được gọi là “đoàn Việt Nam” ở một sự kiện quốc tế lại mở ra một cảm nhận hoàn toàn khác. Cái tên ấy không chỉ là cách xưng hô, mà còn là lời nhắc: mình đang đại diện cho cả một đất nước. Ban đầu, có chút lo lắng, bởi trách nhiệm ấy dường như lớn hơn nhiều so với khả năng của một thiếu niên. Nhưng chính sự lo lắng lại trở thành động lực để mình phải biết lắng nghe, ứng xử chừng mực, tự tin nói ra suy nghĩ. Vì mọi ánh nhìn không chỉ hướng vào cá nhân mình, mà còn nhìn vào “đoàn Việt Nam”.

Thật ra mình thấy chỉ riêng cái tên của mỗi người Việt cũng đã gói trong nó một phần dấu vết của quê hương – những dấu sắc, hỏi, huyền, ngã, nặng mà không ngôn ngữ nào khác có. Nhưng khi khoác lên mình hai chữ “Việt Nam”, tự dưng mình thấy mình cũng…lớn hơn hẳn.
Sau này, dù có thêm nhiều lần tham dự các cuộc giao lưu thanh niên, được may mắn đi đến nhiều quốc gia hơn với vai trò là đại diện hoặc biên phiên dịch cho đoàn đại biểu Việt Nam, nhưng mình vẫn không quên được “lần đầu” đầy cảm xúc ấy. Nó giống như một cột mốc nhỏ, nhưng lại đủ sức dẫn lối cho những lựa chọn lớn sau này của mình.
Hương Giang: Cả nước bỗng trở thành lớp “bình dân học… Sử”
Du học sinh Đức
Mình rời Việt Nam chỉ mới một năm thôi, nhưng ngày nào cũng thấy nhớ nhà, đôi khi chỉ từ những điều tưởng chừng rất bình thường.

Mình vốn là học sinh chuyên Văn, nên ngoài tình yêu với chữ nghĩa thì mình đặc biệt thích các môn khoa học xã hội, trong đó có Sử. Ở Việt Nam, học Sử khá đặc biệt vì nó luôn đi cùng những tình tự quê hương. Đó có thể là giờ Văn xen lẫn những đoạn trích sử thi từ truyền thuyết Thánh Gióng, Hai Bà Trưng cho đến giờ Sử đi kèm hồi ức của ông bà về thời chiến. Sử ở Việt Nam vì thế mà sống động nhờ cả những câu thơ, câu ca khắc trong ký ức.
Khi sang Đức học, Sử mở ra một thế giới của nền tảng khoa học, các mô hình, phương pháp nghiên cứu, sự phân tích khách quan. Mình học được nhiều, mở rộng tư duy, nhưng cũng nhận ra một khoảng trống lớn. Ở đây, dù bạn bè ai cũng sẵn sàng nghe mình kể chuyện sử Việt, thì gần như chỉ có người Việt mới hiểu được cái tình tự quê hương ẩn trong từng câu chuyện dân gian, từng câu ca dao hay cả sự rung động khi nghe hai tiếng “Tổ quốc”.
Rồi đến dịp lễ 30/4 vừa rồi, khi cả Việt Nam ngập tràn trong không khí diễu binh, diễu hành, mình lại thấy mạng xã hội như một lớp “bình dân học…Sử”. Ai cũng kể lại những mốc son, từ Bạch Đằng, Như Nguyệt đến chiến dịch Hồ Chí Minh, ai cũng khoe áo dài bên lá Quốc kỳ.

Ngồi trong căn phòng nhỏ ở Đức, lướt từng dòng trạng thái, nghe từng khúc nhạc, mình nhận ra rằng: kiến thức lịch sử có thể học ở bất kỳ đâu, từ chuyện kể, trong sách vở, đến trên giảng đường. Nhưng những tình tự quê hương gắn chặt lịch sử với tình yêu đất nước thì không. Chúng chỉ nảy nở khi bạn sống trong môi trường nơi những điều ấy gắn liền với ký ức, ngôn ngữ, cộng đồng. Ở Việt Nam, điều đó đến rất tự nhiên. Còn khi sống ở nơi xa, tình cảm ấy lại trở thành một sợi dây gắn kết mạnh mẽ nhất, để trong những ngày hào hùng của dân tộc, mình chưa bao giờ thấy mình đứng ngoài niềm vui chung của đất nước.