Giờ nghĩ kỹ mới thấy, từ nhỏ đến lớn, tôi chưa bao giờ thích thứ Hai. Lúc lớn là ngày đi làm lại, hồi nhỏ là ngày đi học lại. Điều tôi thích nhất ở ngày thứ Hai có lẽ là những giờ học đã ngắn lại nhờ có lễ chào cờ.
Tôi nhớ khi ấy mình chỉ cần đứng trang nghiêm khi tiếng nhạc quốc ca vang lên, mắt hướng về lá cờ đỏ sao vàng như hướng về Tổ quốc. Không ít lần tôi đã tự hỏi: Vì sao chỉ một “mảnh vải” đơn giản lại có thể đại diện cho cả một đất nước? Và tại sao “mảnh vải” ấy lại mang sắc đỏ thắm cùng ngôi sao vàng năm cánh?
Giờ đây, khi Đại lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập nước cận kề, lá cờ đỏ sao vàng được treo khắp từ phố lớn đến con ngõ nhỏ. Trên nhiều trục đường chính, từng dải cờ nhỏ giăng kín, tạo thành biển đỏ tung bay giữa nền trời xanh. Dạo bước giữa khung cảnh ấy, ký ức về những buổi chào cờ sáng thứ Hai lại chợt ùa về.
Và nếu bạn cũng từng thắc mắc như tôi, hãy cùng đi tìm lời giải cho câu hỏi: Vì sao quốc kỳ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng?
Không phải “mảnh vải”, câu chuyện lá cờ bắt đầu từ… cây gậy
Nguồn gốc lá cờ chưa có nghiên cứu khẳng định chắc chắn, nhưng hầu hết đều cho rằng khởi đầu là những cây gậy gắn biểu tượng (vexilloid) được dùng bởi người La Mã cổ đại. Đến khoảng 3.000 TCN, người Ai Cập dùng cờ làm biểu tượng thần linh và chuẩn quân sự, hay Trung Hoa cổ (khoảng 2.000 TCN) với cờ in hình thú vật để phân biệt đơn vị.

Thời Trung Cổ, cờ trở thành công cụ quen thuộc trong quân đội châu Âu và Nhật Bản: kỵ sĩ gắn cờ trên giáo, samurai cắm cờ sau lưng, tướng lĩnh dùng cờ để chỉ huy. Một “mảnh vải” vừa truyền tin, vừa khẳng định sự tồn tại của tập thể: miễn còn cờ, nghĩa là quân đội chưa tan rã.
Đến thế kỷ thứ 18–19, ý niệm về quốc gia và dân tộc dần được hình thành, lá cờ trở thành biểu tượng cho một cộng đồng rộng lớn hơn. Từ đây khái niệm “quốc kỳ” ra đời.
Nhưng vì sao một tấm vải lại được cả một dân tộc đồng lòng tôn vinh? Bởi điều làm nên ý nghĩa của lá cờ không phải bản thân tấm vải, mà là biểu tượng trên đó. Mỗi lá cờ chính là “bản tóm lược” của lịch sử, bản sắc và những dấu mốc quan trọng của một quốc gia, hay cụ thể hơn là:
- Thông điệp dân tộc: Mỗi quốc kỳ được thiết kế có chủ đích, gói ghém màu sắc, hình khối, họa tiết phản ánh lịch sử, văn hóa và khát vọng của dân tộc.
- Sức mạnh biểu tượng: Một họa tiết hay màu sắc trên cờ có thể đại diện cho hàng ngàn trang sử, gắn với những thời khắc thiêng liêng của quốc gia.
- Điểm tựa tinh thần: Lá cờ gắn kết cộng đồng, khơi dậy niềm tự hào và động lực; từ thể thao, chính trị đến chiến tranh, nó nhắc nhở con người rằng họ đang nỗ lực không chỉ cho mình mà cho cả đất nước.
Nguồn gốc của quốc kỳ Việt Nam
Người Việt xưa thường ít nhắc đến khái niệm quốc kỳ. Những lá cờ khi ấy chủ yếu là đế kỳ (biểu tượng cho triều đình) hay quân kỳ của các đội lính. Ngày trước, sắc cờ của Việt Nam đa phần là màu vàng, là màu của hoàng gia, thể hiện một đất nước có vương triều độc lập. Như khi nhắc về Bà Triệu, người ta sẽ hay nhớ đến câu thơ:
Đầu voi phất ngọn cờ vàng
Làm cho giới nữ vẻ vang oai hùng
Đến đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã trải qua nhiều loại cờ: Long Tinh Kỳ thời nhà Nguyễn, cờ ngũ sắc, rồi cờ Tam Tài (quốc kỳ của thực dân Pháp). Tháng 6/1945, Trần Trọng Kim chọn cờ quẻ Ly với nền vàng, quẻ đỏ làm quốc kỳ Đế quốc Việt Nam, nhưng theo nhiều nguồn, lá cờ này chỉ tồn tại vài tháng trước khi lịch sử sang trang.
Tháng 11/1940, trong phong trào khởi nghĩa ở Nam Kỳ, một lá cờ mới lần đầu tiên xuất hiện: nền đỏ, ngôi sao vàng năm cánh. Ai là người vẽ lá cờ vẫn còn là vấn đề được tranh luận, do thông tin có được đều từ hồi ký và lời kể của những nhà cách mạng năm 40. Tuy nhiên, đa phần tài liệu hiện đại nhắc đến chiến sĩ cộng sản, liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến. Song nhiều nghiên cứu, đặc biệt tại hội thảo năm 2005 ở Mỹ Tho, khẳng định công lao thuộc về Lê Quang Sô – người đã phác thảo lá cờ mặt trận để đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên theo Bộ Văn hóa Thông tin có công văn số 1393/VHTT-BTCM thì chưa xác định chính xác ai là người vẽ lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên.
Dù do ai vẽ, lá cờ ấy ra đời từ máu và khát vọng giải phóng.
Năm 1941, Việt Nam Độc lập Đồng minh (còn gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Minh) chính thức nêu trong chương trình hành động: cờ đỏ sao vàng sẽ là cờ toàn quốc sau khi giành độc lập. Và chỉ bốn năm sau, khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 5/9/1945, Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh số 5-SL: bãi bỏ cờ quẻ Ly, ấn định lá cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ Việt Nam. Đến tháng 11/1946, Quốc hội đã chính thức công nhận lá cờ đỏ sao vàng trong Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

Từ đó, ngôi sao vàng năm cánh trên nền đỏ không chỉ là lá cờ của cách mạng, mà còn là biểu tượng của một dân tộc vừa bước vào kỷ nguyên mới.
Ý nghĩa của quốc kỳ Việt Nam
Nền đỏ của Quốc kỳ Việt Nam không phải ngẫu nhiên. Đó là màu của máu, của lửa cách mạng, tượng trưng cho tinh thần hy sinh chiến đấu của nhân dân. Ngôi sao vàng năm cánh đặt giữa nền đỏ cũng mang nhiều lớp nghĩa: vừa là màu da vàng của con người Việt Nam, vừa là ánh sáng soi đường cách mạng, vừa là sự đoàn kết của năm tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình dân tộc.
Ngay từ khi ra đời, lá cờ đã gắn liền với hy sinh và khát vọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định trước Quốc hội năm 1946:
Lá cờ đỏ sao vàng đã nhuộm bao nhiêu máu chiến sĩ Việt Nam ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đã đi từ Á sang Âu, lại từ Âu sang Á, tới đâu cũng được chào kính cẩn, bây giờ trừ khi cả 25 triệu đồng bào còn ra không ai có quyền gì mà đòi thay đổi nó.
Cũng trong năm đó, Quốc hội khóa I đã ghi vào Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
Từ một lá cờ của phong trào, cờ đỏ sao vàng chính thức trở thành biểu tượng pháp lý và tinh thần của một quốc gia độc lập.
Nhưng giá trị của nó không dừng lại ở pháp lý hay quy định treo cờ. Mỗi lần xuất hiện, nó không chỉ đánh dấu một chiến thắng, mà còn thắp lên niềm tin và niềm tự hào chung của cả dân tộc.

Quốc kỳ màu đỏ sao vàng đã trở thành biểu tượng bất diệt, mang theo cả quá khứ đấu tranh, hiện tại kiêu hãnh và khát vọng tương lai của người Việt.