Hạt gạo Việt: Từ cánh đồng làng đến thương hiệu đại diện đất nước | Vietcetera
Billboard banner
Vietcetera

Hạt gạo Việt: Từ cánh đồng làng đến thương hiệu đại diện đất nước

Hơn cả những sản phẩm văn hóa được đầu tư bài bản như Kpop của Hàn Quốc, điện ảnh của Mỹ hay TikTok của Trung Quốc, Việt Nam cũng có một “quyền lực mềm” riêng: hạt gạo.

Thanh Trúc
Hạt gạo Việt: Từ cánh đồng làng đến thương hiệu đại diện đất nước

Nguồn: Vietnamnet

Từ nhỏ tôi đã luôn nghe về thông tin Việt Nam xuất khẩu gạo nhiều thứ 2 thế giới. Mới đây, khi quyên tiền hỗ trợ Cuba vượt qua khó khăn bão lũ, tôi lại biết thêm Việt Nam đã gửi chuyên gia sang Cuba hỗ trợ kỹ thuật tăng sản lượng lúa. Hình ảnh cây lúa và hạt gạo lúc này không chỉ là những cảm giác xa xôi của “rừng vàng biển bạc”, câu ca dao “hạt gạo chia đôi”, hay dáng dấp người nông dân chân lấm tay bùn. Giờ đây, hạt gạo Việt còn mang một ý nghĩa khác: những con số ấn tượng về sản lượng, chất lượng, và hình ảnh một Việt Nam đang góp phần trực tiếp vào an ninh lương thực toàn cầu.

Từ nước “nhập khẩu gạo” đến nước “xuất khẩu gạo” top đầu thế giới

Trong trí nhớ tuổi thơ tôi, Việt Nam luôn là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Quả thật, đã có lúc Việt Nam vươn lên vị trí số 1 (năm 2012, vượt cả Thái Lan và Ấn Độ). Thế nhưng, ngược về những năm đất nước còn chiến tranh và cả khi hòa bình vừa lập lại, Việt Nam từng phải nhập khẩu gạo để đủ ăn.

Nhưng sau chính sách Đổi mới 1986, nông nghiệp bứt phá, và chỉ ba năm sau, năm 1989, Việt Nam lần đầu tiên xuất khẩu được 1,4 triệu tấn gạo. Kể từ đó, chúng ta nhanh chóng vươn lên top 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, cạnh tranh sát sao cùng Ấn Độ và Thái Lan.

alt
Nguồn: Báo Điện tử Chính phủ

Năm 2024, theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Việt Nam đạt kỷ lục gần 9 triệu tấn gạo xuất khẩu, trị giá 5,7 tỷ USD, đứng thứ 3 sau Ấn Độ (17 triệu tấn) và Thái Lan (10 triệu tấn). Năm 2024, giá xuất khẩu bình quân cũng lập đỉnh lịch sử, hơn 600 USD/tấn – tăng tới 28% chỉ sau ba năm.

Từ xuất khẩu gạo nhiều đến xuất khẩu gạo ngon

Đáng chú ý, gạo Việt vẫn giữ được mức giá cao so với các đối thủ. Ngay cả khi Ấn Độ mở kho, khiến giá gạo toàn cầu giảm, gạo 5% tấm của Việt Nam vẫn duy trì 537 USD/tấn, cao hơn gạo Pakistan 56 USD, và cao hơn gạo Thái Lan 40 USD. Đây là minh chứng rõ ràng cho bước chuyển từ “gạo nhiều” sang “gạo ngon, gạo chất lượng”, có khả năng chinh phục phân khúc cao cấp. Điển hình là gạo ST25, giống lúa do kỹ sư Hồ Quang Cua cùng cộng sự lai tạo từng 2 lần đoạt giải “Gạo ngon nhất thế giới” năm 2019 và 2023.

alt
Kỹ sư Hồ Quang Cua nhận giải "Gạo ngon nhất thế giới tại Hội nghị Thương mại Lúa gạo Toàn cầu 2023 ở Singapore. | Nguồn: Báo Lao Động

Và câu chuyện gạo Việt Nam chinh phục các thị trường khó tính bậc nhất cũng là điều tất yếu. Năm 2020, EU ký EVFTA và ngay sau đó đã nhập những lô gạo thơm ST20, Jasmine, Nàng Hoa… với hạn ngạch thuế suất 0%. Nhật Bản cũng đã nhập khẩu gạo ST25 để tiêu thụ trực tiếp, thay vì chỉ dùng cho chế biến như trước. Đây là cột mốc khẳng định chất lượng gạo Việt đủ sức cạnh tranh ngay tại những thị trường khắt khe nhất thế giới.

Không chỉ xuất khẩu gạo, Việt Nam còn xuất khẩu kinh nghiệm trồng lúa

Chúng ta quen thuộc với hình ảnh Việt Nam như một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất. Nhưng câu chuyện Việt Nam ‘xuất khẩu kinh nghiệm trồng lúa lại là điều mà bạn bè quốc tế biết rõ, có khi còn nhiều hơn chính người Việt Nam.

Bạn có biết trong gần 60 năm qua, Việt Nam đã gửi hơn 2.000 chuyên gia và kỹ thuật viên nông nghiệp sang nhiều quốc gia châu Á và châu Phi? Riêng từ năm 1996 đến nay, hơn 400 chuyên gia đã có mặt tại Lào, Benin, Chad, Congo, Madagascar, Mali và Senegal trong khuôn khổ hợp tác Nam – Nam. Ở những nước này, các kỹ sư nông nghiệp Việt Nam đã mang theo những kinh nghiệm giản dị muôn đời của người nông dân Việt như chọn giống, gieo sạ, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh để giúp nông dân sở tại nâng năng suất lúa lên gấp 2 đến 4 lần.

Tại Mozambique, những thửa ruộng từng khô cằn bắt đầu phủ xanh và trĩu bông nhờ kỹ thuật trồng lúa nước Việt Nam. Ở Cuba, bên cạnh tình hữu nghị chính trị, hình ảnh Việt Nam còn gắn liền với từng mùa lúa, khi chuyên gia trực tiếp xuống đồng, hướng dẫn nông dân cải thiện sản lượng.

alt
Người Việt chia sẻ “cẩm nang” trồng lúa cùng người dân Mozambique.

Điều làm nên giá trị không chỉ là kiến thức, mà còn là cách họ đồng hành: sống trong làng, cùng ăn, cùng làm, “cầm tay chỉ việc” từng kỹ thuật nhỏ. Chính sự gần gũi ấy đã khiến mô hình được FAO đánh giá là một trong những ví dụ thành công nhất của hợp tác Nam – Nam.

Không chỉ xuất khẩu gạo hay kinh nghiệm trồng lúa, Việt Nam còn góp mặt trong một câu chuyện lớn hơn: đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu. Khi thế giới đối diện với biến đổi khí hậu, dịch bệnh và khủng hoảng năng lượng, xung đột chính trị, vấn đề lương thực trở thành ưu tiên hàng đầu. Trong bức tranh đó, Việt Nam không chỉ là nhà cung cấp gạo quan trọng mà còn là đối tác chia sẻ mô hình sản xuất bền vững, giúp nhiều quốc gia củng cố khả năng tự nuôi sống mình.

Ngược dòng lịch sử của Hạt lúa Việt

Ít ai ngờ rằng, câu chuyện Việt Nam “xuất khẩu kỹ năng canh tác” đã bắt đầu ngay từ giữa thế kỷ trước, không qua con đường thương mại hay viện trợ, mà qua những bước chân cưỡng chế sang Pháp. Từng có khoảng 20.000 người Việt từ Đông Dương đã bị Pháp đưa sang làm lao động, trong đó có một số bộ phận được điều động sang vùng Camargue để phục hồi ngành trồng lúa đang chết dần trong bối cảnh khan hiếm lương thực thời chiến.

alt
Hình ảnh lính thợ Việt Nam canh tác tại Camargue. | Nguồn: AMPOI, Báo Tuổi trẻ Online

Theo bài viết « Quand la Camargue était vietnamienne » của tác giả Pierre Daum đăng trên tạp chí GEO (Pháp), có khoảng 1500 người Việt đã được đưa đến Camargue, gieo mạ trên 250 ha, thu hoạch được 125 tấn gạo trong mùa gạo năm 1942. Đến năm 1946, diện tích mở rộng lên 1.000 ha, sản lượng đạt 1.900 tấn gạo sống. Giai đoạn 1950, Camargue đã trở thành vùng lúa quy mô lớn với 32.000 ha rải khắp đồng bằng, sản lượng lên đến 140.000 tấn gạo mỗi năm.

Sự tái sinh ấn tượng này không chỉ hồi sinh nền nông nghiệp Camargue mà còn tạo nên di sản lúa gạo dài lâu. Ngày nay, Camargue vẫn là vùng sản xuất chủ lực, chiếm tới 30% nhu cầu nội địa Pháp. Từ ký ức người Việt bị ép nhập cư, họ đã gieo vào lòng nước Pháp những hạt giống tri thức canh tác, để từ đó trổ sinh những mùa lúa Camargue trù phú.

Và trước cả hành trình ấy, hạt gạo đã nuôi lớn dân Việt suốt ngàn năm Bắc thuộc. Như nhà xã hội học Lương Đức Thiệp viết trong Xã hội Việt Nam (1944), kỹ năng trồng lúa của người Việt ngay từ thuở đầu lịch sử đã bền bỉ và tinh vi, đủ để chống chọi thiên nhiên khắc nghiệt và nuôi dưỡng sức mạnh cộng đồng, để rồi từ đó dân tộc mới đủ sức giành lấy quyền tự chủ, độc lập.

alt
Lúa là thương hiệu quốc gia của Việt Nam. | Nguồn: Réhahn Photography

Ngày nay, trên một đất nước kéo dài từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, cây lúa và hạt gạo Việt Nam tiếp tục phát triển rực rỡ, không chỉ nuôi sống hơn 100 triệu người dân trong nước mà còn góp mặt vào bữa ăn của hàng trăm triệu gia đình trên khắp thế giới.

Khi hạt gạo làng ta trở thành thương hiệu Việt Nam

Hơn cả những sản phẩm văn hóa được đầu tư bài bản như Kpop của Hàn Quốc, điện ảnh của Mỹ hay TikTok của Trung Quốc, Việt Nam cũng có một “quyền lực mềm” riêng: hạt gạo. Nó làm nên sợi phở, sợi bún bò Huế (biệt danh quốc tế: BBH) “viral” khắp thế giới chỉ bằng hương vị thơm ngon. Nó cũng là cách chúng ta góp sức chống lại nạn đói toàn cầu: sẵn sàng chia sẻ hạt gạo và cả kinh nghiệm trồng lúa với bạn bè khắp nơi. Không giấu giếm, không giữ riêng, bởi đó vốn là một nét tính cách Việt Nam – tương thân tương ái.

Và nếu ngày xưa hình ảnh người nông dân gắn với “chân lấm tay bùn”, thì nay họ đã trở thành người làm chủ công nghệ. Ở Đồng Tháp, hơn 100 drone đang chăm sóc hàng ngàn ha lúa mỗi ngày, giúp tiết kiệm 20–30% lượng thuốc và phun nhanh hơn 10–15 lần so với phương pháp truyền thống. Tại ĐBSCL, trang bị drone đã lan rộng đến An Giang và Kiên Giang, giúp giảm đáng kể chi phí lao động. Không chỉ vậy, cảm biến IoT (internet vạn vật) còn được sử dụng để theo dõi độ ẩm, nhiệt độ và độ ẩm đất theo thời gian thực, giúp người dân tiết kiệm nước và phân bón, đồng thời giảm công lao động. Giờ đây, những cánh đồng giờ không chỉ xanh mướt, mà còn sáng rực màn hình điều khiển và tín hiệu GPS.

alt
Những “cỗ máy” hỗ trợ nông dân trong việc trồng/gặt lúa.

Từ “hạt gạo làng ta” trong ký ức, hôm nay gạo Việt đã trở thành hình ảnh đại diện cho đất nước: giản dị mà kiêu hãnh, bền bỉ mà tỏa sáng trên bản đồ thế giới.