Khi phụ nữ kể về chiến tranh ở Việt Nam | Vietcetera
Billboard banner
Vietcetera

Khi phụ nữ kể về chiến tranh ở Việt Nam

Cuộc chiến tại Việt Nam, khi được nhìn qua lăng kính của phụ nữ, thì sẽ có gì khác biệt? Họ kể gì về cuộc chiến đó?

Kiều Nga
Khi phụ nữ kể về chiến tranh ở Việt Nam

Một cảnh trong bộ phim Ngày hòa bình của Đạo diễn Đoàn Hồng Lê. Đây là bộ phim đầu tiên của VTV8 làm về ngày 29/3 mà không nói gì về các trận đánh, không nói về thắng thua, thành bại.

Tròn 50 năm kể từ khi cuộc chiến ở Việt Nam kết thúc.

Hàng trăm bộ phim đã được làm về cuộc chiến ấy. Nhưng bao nhiêu trong số đó được kể bởi phụ nữ?

Apocalypse Now của Francis Coppola hay Full Metal Jacket của Stanley Kubrick là một trong những tác phẩm đã định hình cách thế giới nhìn về cuộc chiến ở Việt Nam: lửa đạn, binh lính, xe tăng.

Svetlana Alexievich từng viết rằng: Chúng ta là tù binh của những hình ảnh “đàn ông” và những xúc cảm của “đàn ông” về chiến tranh.

Chúng ta tưởng rằng đã kể hết về chiến tranh qua những bộ phim đó. Nhưng những lăng kính còn thiếu luôn là của phụ nữ.

Điều này có thể được hiểu đơn giản rằng: Đạo diễn nam luôn nhiều hơn đạo diễn nữ.

Tôi tự hỏi, cuộc chiến tại Việt Nam, khi được nhìn qua lăng kính của phụ nữ, thì sẽ có gì khác biệt? Họ nhìn về cuộc chiến đó như thế nào? Họ kể gì về cuộc chiến đó? Có những số phận nào chưa từng được gọi tên, mà chỉ có thể được nhìn thấy bởi phụ nữ?

Tôi đi tìm câu trả lời qua những cuộc trò chuyện cùng những phụ nữ Việt Nam đang kể về chiến tranh: Một đạo diễn phim tài liệu lớn lên giữa những câu chuyện hậu chiến ở nơi từng chia cắt đất nước, một tác giả sách ảnh là con gái của người lính phi công với những chiến tích huy hoàng và nhà sản xuất của liên hoan phim Việt Nam đầu tiên ở Anh Quốc đang thay đổi cách điện ảnh Việt được cảm nhận ở bên ngoài Việt Nam.

“Số phận con người trong chiến tranh chỉ là những hạt bụi...”

alt
Chân dung đạo diễn Đoàn Hồng Lê

Đạo diễn phim tài liệu Đoàn Hồng Lê sinh năm 1974, một năm trước khi chiến tranh kết thúc. Chị lớn lên ở Quảng Trị, trong một gia đình miền Trung từng tập kết ra Bắc.

Khi trở về miền Trung, gia đình chị sống ở một xóm của người miền Nam. Nhưng những đứa trẻ cùng xóm không chấp nhận chị. Với chúng, chị là “người Bắc.” Cha mẹ của những đứa trẻ này từng mất việc, từng trải qua những biến động sau 1975. Khoảng cách giữa hai miền khi ấy sâu đến mức con cái họ cũng không thoát khỏi định kiến.

Ở trường, lịch sử được kể khác. Từ đó, câu hỏi “tại sao?” luôn đeo bám chị. Và câu hỏi ấy dẫn đường cho tất cả những bộ phim sau này.

Mỗi bộ phim là một mảnh ghép. Một câu trả lời nhỏ để lấp đầy khoảng trống trong câu chuyện lớn.

“Các bộ phim của tôi cho mọi người thấy những số phận bình thường đã sống như thế nào trong chiến tranh và khi đã đi ra khỏi cuộc chiến,” Đoàn Hồng Lê nói.

“Số phận con người trong chiến tranh chỉ là những hạt bụi. Họ có quyền lựa chọn, nhưng không thể quyết định. Họ bị cuốn đi trong dòng chảy lịch sử.”

Bố chị từng là phóng viên chiến trường và trở về hậu phương năm 1968. “Năm mươi năm sau chiến tranh, ngay trước khi mất, ông vẫn còn bị những cơn ác mộng dày vò. Ông mơ về những lần trực thăng Mỹ đổ xuống, về nỗi sợ tột cùng của một phóng viên đang trú ẩn giữa tiếng bom gào thét. Ông thường la hét trong những giấc mơ và cả xóm đều nghe thấy.

alt
Đạo diễn Đoàn Hồng Lê và cha khi quay “Lời cuối cùng của cha”

Nửa thế kỷ trôi qua. Nhưng ký ức, cảm xúc, vết thương vẫn hằn sâu, ám ảnh cách con người sống và hành xử.

Cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, xuất bản năm 1992, gần như lần đầu tiên cho thấy nỗi buồn của những người lính trong chiến tranh – rằng không phải người lính nào trở về cũng mang dáng vẻ hào hùng.

Còn những người lính Quân đội Việt Nam Cộng hòa, khi tôi tìm đến họ thì nhiều người từ chối kể lại câu chuyện cá nhân vì nghĩ rằng mình là kẻ thua cuộc: “Chẳng có gì vinh quang để kể lại.” Họ chỉ muốn chôn vùi, quên lãng ký ức đó.

Ở Việt Nam, người ta không nói về điều đó. Người lính cần phải hiện lên như những con người mạnh mẽ. Còn PTSD (Post-traumatic stress disorder/ Rối loạn căng thẳng sau chấn thương), còn tổn thương, còn việc dám cho người khác thấy tổn thương—tất cả có thể bị coi là yếu đuối.”

Trong phim Người mẹ (2022), nhân vật chính là cô Đẹp, người phụ nữ dành bốn mươi năm đi tìm con gái thất lạc trong chiến dịch Babylift. Hiếm hoi có một bộ phim Việt Nam kể lại chiến tranh từ góc nhìn ấy.

alt
Cô Đẹp và con gái thất lạc trong Chiến dịch Babylift.

Những bộ phim của chị gặp nhau ở một điểm chung: tạo cảm giác “thương.” “Mỗi khi nhìn lại lịch sử dân tộc, tôi thấy thương. Nghĩ tại sao người Việt Nam lại phải trải qua nhiều nỗi đau đến vậy,” Đoàn Hồng Lê nói.

“... tôi thấy được cả những mệt mỏi, mất mát và cả những thanh thản, thăng trầm khi người lính Không quân hoàn thành nhiệm vụ lớn của đời mình và trở về…”

alt
Chân dung tác giả sách Từ Phương Thảo

Tác giả sách Từ Phương Thảo là con gái của Đại tá, phi công Từ Đễ—thành viên Phi đội Quyết thắng năm xưa, người từng tham gia phi vụ cuối cùng trước ngày đất nước thống nhất.

Tuổi thơ của chị gắn với tiếng gầm của phản lực, với những mùa hè theo chân bố qua các căn cứ không quân, tận mắt chứng kiến cuộc sống, sinh hoạt và trực chiến của các phi công chiến đấu. “Khi là một cô bé 10 tuổi được nghỉ ba tháng hè là ba tháng tôi sẽ sống trọn ở sân bay. Tuỳ nhiệm vụ của bố mà tôi sẽ đi các sân bay ở khắp Việt Nam, từ Phan Rang — Tháp Chàm, Đà Nẵng, Thanh Hóa.

Sau này, khi làm cuốn sách ảnh về thế hệ phi công anh hùng đầu tiên, tôi được quay lại tất cả những nơi tuổi thơ từng đi qua. Có nơi nhận ra, có nơi thay đổi nhiều. Khi đó tôi nhận ra cả cuộc đời của mình gắn với không quân.”

alt
Trang giới thiệu về đội ngũ phi công Trung đoàn 937 (Thành Sơn - Phan Rang). | Nguồn: Vietnamese Air Warriors

Chị gọi đó là môi trường nuôi dưỡng mình. “Con người lớn lên trong môi trường nào thì sẽ được nuôi dưỡng bởi tất cả những gì hấp thụ từ đó. Tôi lớn lên trong ký ức và lịch sử,” Từ Phương Thảo nói.

Chính tình yêu, cùng những ký ức tuổi thơ và bóng hình người cha phi công, đã đưa chị cùng nhiếp ảnh gia Ngô Nhật Hoàng đến hành trình chín năm làm 108 Phi công chiến đấu Việt Nam— cuốn sách gần 300 trang song ngữ, hơn 600 bức ảnh tư liệu như một ký ức tập thể được xếp lại trên giấy.

alt
Trang về AHLLVTND Trần Hanh - phi công đầu tiên của KQVN dùng MiG-17 bắn rơi chiếc F-105D 'thần sấm' của KQ Mỹ trong trận mở màn mặt trận trên không thắng lợi 4/4/1965. | Nguồn: Vietnamese Air Warriors

Hình ảnh thế hệ phi công anh hùng được hai tác giả sưu tầm, chụp tại nhà riêng của các phi công. “Chúng tôi như chạm được vào kỷ niệm của các bác khi đến tận nhà, được các bác mang album ra xem. Có phi công từ lâu mất liên lạc với đồng đội, ít giao tiếp và không thích chụp hình, một phần vì muốn giữ lại hình ảnh oai hùng thời trẻ hoặc bản thân vướng vào “sự cố” trong nghề bay – điều mà phi công thời chiến trong hoàn cảnh ngặt nghèo thường phải đối mặt, nên chúng tôi phải cố gắng thuyết phục để các bác đồng ý xuất hiện” – tác giả Từ Phương Thảo chia sẻ.

alt
Từ Phương Thảo (bên phải) và Đại tá Từ Đễ (bên trái)

“Tự hào là con của người lính Không quân, với kiến thức về nghề bay cùng sự nhạy cảm về nghệ thuật may mắn có được, tôi tin vào bản thân cảm nhận vẻ đẹp, hiểu được một phần cảm xúc của những người lính phi công.

alt
Hình ảnh trong cuốn sách 108 Phi công chiến đấu Việt Nam: Trang về Đại tá - ACE Nguyễn Văn Bảy

Qua những vai áo sờn gắn quân hàm xanh đã bạc, chiếc mũ bay đã cũ, những tấm huân chương dù ít ỏi hay trĩu nặng bên ngực áo, những ánh mắt đã quen hướng về một nơi nào đó rất xa vẫn sáng rực lên mỗi khi kể lại chuyến bay kỷ niệm, tôi thấy được cả những mệt mỏi, mất mát và cả những thanh thản, thăng trầm khi người lính Không quân ấy hoàn thành nhiệm vụ lớn của đời mình và trở về với mặt đất, trở về với quê nhà, nơi có người bạn đời, nơi có cánh đồng, ngôi nhà cũ cùng lũ cháu nội ngoại vây quanh ông…”

“Phụ nữ có thể kể điều gì mà đàn ông không thể?”

alt
Tuyet Van Huynh (on the right) at the opening of Star Nhà Ease’s 2024 season. | Source: Star Nhà Ease

Tuyết Vân Huỳnh là nhà đồng sáng lập và giám tuyển của Star Nhà Ease — Liên hoan Phim Việt Nam đầu tiên và duy nhất tại Anh Quốc.

Hành trình của Tuyết cùng Star Nhà Ease bắt đầu từ những khoảng trống, những câu chuyện vắng bóng.

Hình ảnh Việt Nam trên màn ảnh—ít nhất là ở Anh—vẫn chủ yếu đến từ Hollywood. Những hình ảnh cháy nổ, lính Mỹ, rừng rậm, và chiến trường.

Tuyết vẫn chọn chiếu những bộ phim Việt Nam kể về chiến tranh với khán giả quốc tế. Bởi lẽ, chiến tranh là một phần trong ký ức người Việt Nam. Nó vẫn còn đó và tiếp tục ảnh hưởng đến cách ta tồn tại. Nó đã định hình dân tộc và con người chúng ta.

Nhưng điều đó không có nghĩa chiến tranh lúc nào cũng phải là trung tâm của mọi câu chuyện. Với Tuyết, “vấn đề không nằm ở việc ta có ngừng kể về chiến tranh hay không, mà là cách ta chọn để kể — và từ góc nhìn nào, thoát khỏi sự lặp lại, và tìm ra những hướng tiếp cận, lăng kính mới.

Điều quan trọng là phải đặt câu hỏi: có những gì vẫn chưa được nói ra?

Có một chiều sâu xúc cảm và sự dịu dàng nhất định mà người phụ nữ có thể mang đến cho việc kể chuyện.

Nhưng điều này không phải để hỏi rằng: “Phụ nữ có thể kể điều gì mà đàn ông không thể?” hay ngược lại. Vấn đề là ta giữ cho mình sự rộng mở trước cách những câu chuyện ấy được kể, thay vì đóng khung chúng thành “câu chuyện của đàn ông” hay “câu chuyện của phụ nữ.”

Khác biệt nằm ở chỗ, trong lịch sử, phụ nữ chưa từng được trao đủ không gian hay cơ hội để sáng tạo, vì thế chúng ta cũng chưa có nhiều câu chuyện do phụ nữ kể để cùng lắng nghe và đối thoại.

Vậy nên, đúng là ta cần nhiều câu chuyện từ phụ nữ hơn. Không chỉ là “câu chuyện về nữ giới,” mà là những câu chuyện được chính phụ nữ kể.”